Triều Đại Nhà NGUYỄN
Nhà Nguyễn là triều đại vua chúa cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Bắt đầu khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và chấm dứt khi vua Bảo Đại thoái vị vào năm 1945, tổng cộng là 143 năm. Quốc hiệu là Việt Nam, kinh đô đặt tại Huế.
Các Đời Vua
Vua Gia Long sinh năm 1762, mất năm 1819, là con trai thứ ba của Nguyễn Phúc Luân, lên ngôi năm 1802, có 13 con trai và 18 con gái. Vua Gia Long cũng là người đặt tên nước là Việt Nam.
Vua Minh Mạng sinh năm 1791, mất năm 1840, là con trai thứ tư của vua Gia Long, lên ngôi năm 1820 (ngày 1 tháng giêng âm lịch) vì người anh cả là hoàng tử Cảnh lúc đó đã chết (các anh thứ hai và thứ ba chết lúc còn nhỏ), có 78 con trai và 64 con gái.
Vua Thiệu Trị sinh năm 1807, mất năm 1847, là con trai lớn của vua Minh Mạng, lên ngôi năm 1841 (ngày 1 tháng giêng âm lịch), có 29 con trai và 35 con gái.
Vua Tự Đức sinh năm 1829, mất năm 1883, là con trai thứ hai của vua Thiệu Trị, lên ngôi năm 1847, vì không có con nên nuôi 3 người cháu. Cả ba sau đều lên làm vua: Dục Đức, Đồng Khánh và Kiến Phúc.
Vua Dục Đức sinh năm 1852, mất năm 1883, là con trai trưởng (con nuôi) của vua Tự Đức, lên ngôi ngày 20 tháng 7 năm 1883 nhưng 3 ngày sau bị Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết truất phế rồi giết chết, có 11 con trai và 8 con gái. Dục Đức, vì ở trên ngôi có 3 ngày, không có thời giờ chọn niên hiệu; Dục Đức là tên của dinh thự của vị vua này. Miếu hiệu và thụy hiệu về sau mới được tôn xưng.
Vua Hiệp Hòa sinh năm 1847, mất năm 1883, là con trai thứ 29 của vua Thiệu Trị (tức là em của vua Tự Đức), lên ngôi ngày 30 tháng 7 năm 1883 nhưng 4 tháng sau bị Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết giết chết, không có con.
Vua Kiến Phúc sinh năm 1869, mất năm 1884, là con trai thứ ba (con nuôi) của vua Tự Đức, lên ngôi ngày 2 tháng 12 năm 1883 nhưng 8 tháng sau thì bị bệnh rồi chết, mọi việc đều được lo bởi Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, không có con.
Vua Hàm Nghi sinh năm 1872, mất năm 1943, là cháu gọi vua Tự Đức là chú (có cùng cha với vua Đồng Khánh nhưng vua Đồng Khánh là con nuôi của vua Tự Đức), lên ngôi năm 1884 nhưng bị Pháp truất phế 1 năm sau đó vì mưu lược chống họ, có 1 con trai và 2 con gái. Sau khi bị truất phế vua Hàm Nghi tiếp tục việc chống Pháp nhưng bị bắt vào năm 1888 và bị Pháp đày sang Algérie.
Vua Đồng Khánh sinh năm 1864, mất năm 1889, là con trai thứ hai (con nuôi) của vua Tự Đức, lên ngôi năm 1885 nhưng sau 3 năm thì bị bệnh rồi chết, có 6 con trai và 3 con gái.
Vua Thành Thái sinh năm 1879, mất năm 1955, là con trai thứ bảy của vua Dục Đức (người làm vua chỉ trong 3 ngày), lên ngôi năm 1889 nhưng bị Pháp truất phế vào năm 1907 vì chống lại họ, có 16 con trai và nhiều con gái. Vào năm 1916 vua Thành Thái (cùng con là vua Duy Tân) bị Pháp đày sang đảo Réunion, nhưng được đón trở lại Việt Nam vào năm 1947.
Vua Duy Tân sinh năm 1899, mất năm 1945, là con trai thứ năm của vua Thành Thái, lên ngôi năm 1907 nhưng chỉ lo việc chống Pháp nên bị họ truất phế và đày sang đảo Réunion (cùng với cha là vua Thành Thái) vào năm 1916, có 3 con trai và 1 con gái.
Vua Khải Định sinh năm 1885, mất năm 1925, là con trai trưởng của vua Đồng Khánh, lên ngôi năm 1916 với ý định hòa hoãn với Pháp, chỉ có 1 con trai.
Vua Bảo Đại sinh năm 1913, mất năm 1997, là con trai độc nhất của vua Khải Định, lên ngôi năm 1926 trong khi đang du học tại Pháp nên về Việt Nam 6 năm sau đó, có 2 con trai và 3 con gái. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, triều đình hoàng đế Bảo Đại tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam.
__ oOo __
Công nữ Ngọc Vạn với sự nghiệp mở đất phương Nam của Chúa Nguyễn
Châu Yến Loan, anviettoancau
Trong sự nghiệp mở đất phương Nam đầy gian khổ nhưng hết sức vĩ đại của Chúa Nguyễn, ngoài sự đóng góp máu xương của những người lính, mồ hôi nước mắt của những di dân, tài sản của những điền chủ còn có sự hy sinh âm thầm lặng lẽ của một người con gái nhà chúa, người đó là Ngọc Vạn Công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Vạn là con gái thứ hai của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên và Hoàng Hậu Nguyễn thị Giai.
Hoàng Hậu Nguyễn thị Giai vốn họ Mạc, quê ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, thuộc trấn Hải Dương (nay thuộc xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, Thành phố Hải Phòng), là con gái út của Khiêm Vương Mạc Kính Điển. Sau khi Mạc Kính Điển qua đời, quân Trịnh thắng thế, nhà Mạc suy vong, năm Quý Tỵ (1593) bà Mạc thị Giai theo gia quyến tìm đường vào Nam nương tựa vào người chú ruột là Mạc Cảnh Huống. Bà ẩn cư tại chùa Lam Sơn, làng Cổ Trai gần cửa Tùng, tỉnh Quảng Trị.
Mạc Cảnh Huống là cận thần của chúa Tiên Nguyễn Hoàng, bà Nguyễn Thị Ngọc Dương, phu nhân của ông Huống, là thím của Mạc thị Giai, lại là em gái của phu nhân Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng, là dì ruột của Thế Tử Nguyễn Phúc Nguyên, nhờ mối quan hệ khắng khít đó mà bà Ngọc Dương đã tiến cử Mạc thị Giai vào hầu Thế tử rồi trở thành Hoàng hậu.
Bà Mạc thị Giai rất hiền thục, đoan trang, thanh nhã nên được Nguyễn Phúc Nguyên yêu thương, cho đổi thành họ Nguyễn (Nguyễn thị Giai).
Năm 1602 chúa Tiên Nguyễn Hoàng lập Dinh trấn Quảng Nam cử Thế tử Nguyễn Phúc Nguyên làm Trấn thủ, bà theo chồng vào sống tại Dinh trấn Thanh Chiêm và sinh hạ công nương Ngọc Vạn tại đó.
Trong quyển “Công chúa sứ giả” ông Huỳnh Văn Lang căn cứ vào năm bà Ngọc Vạn kết hôn(1620) lúc bà khoảng 17, 18 tuổi mà suy đoán là bà sinh ra tại Quảng Nam vào những năm đầu thế kỷ XVII. Ông viết: “Công chúa sanh ra ở đâu? Chắc chắn Công chúa sanh ra ở Quảng Nam, vì chúa Tiên Nguyễn Hoàng, như sử ghi đã sai con là Nguyễn phúc Nguyên vào trấn thủ Quảng Nam năm Lê Hoằng Định thứ 3, tức là năm 1602, cũng là năm sứ Chiêm Thành sang giao hiếu với chúa Nguyễn. Cho nên có thể nói Ngọc Vạn Công chúa sanh ra ở Quảng Nam trong những ba bốn năm đầu thế kỷ 17 (1602-1605)”
Năm Canh Thân 1620, bà được chúa Sãi gả cho vua Chân Lạp là Chey Chêtthâ II. Đây là một cuộc hôn nhân mang tính chất chính trị, Chey Chêtthâ II muốn cầu hôn con gái của chúa Sãi để tìm sự yểm trợ của triều đình Huế nhằm chống lại sự tấn công tiêu diệt của quân Xiêm, bảo vệ nền độc lập tự do cho Chân Lạp. Còn chúa Sãi thì ngoài mục đích xây dựng mối hòa hiếu với một lân bang để có thể rảnh tay đối phó với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, cuộc hôn nhân còn nhằm tạo cơ hội để đông đảo di dân Thuận- Quảng vào khai phá vùng đất hoang vu ở phía đông nam Chân Lạp, hướng đến một tương lai xa cho đất nước, dân tộc.
Theo các sử gia phương Tây, công nữ xứ Đàng Trong “rất xinh đẹp” (Jean Moura, Le Royaume du Cambodge, Paris 1883, Tập II, tr 61), dịu dàng, thùy mị lại sớm được giáo dục trong nền đạo đức Phật giáo nên dễ dàng hội nhập vào môi trường văn hóa của Chân Lạp, do đó mặc dầu Chey Chêtthâ II đã có hai bà vợ người Chân Lạp và người Lào nhưng công nữ Ngọc Vạn rất được nhà vua yêu quý . Bà được phong làm “Đệ nhất Hoàng hậu” tước hiệu “Somdach Prea Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattrey”. Biên niên sử hoàng gia Chân Lạp gọi bà là Hoàng hậu Ang Cuv.
Ngọc Vạn về quê chồng đã đem theo nhiều người Việt, trong đó có người được giữ chức vụ quan trọng trong triều đình Chân Lạp. Bà cho lập xưởng thợ, mở các nhà buôn gần kinh đô Oudong (Phnompenh) để họ làm ăn sinh sống. Chẳng bao lâu đã có hai làng người Việt ở Udong, phần lớn là người từ Quảng Nam, Quảng Ngãi sang buôn bán và làm tiểu thủ công nghệ. Và ba năm sau cuộc hôn nhân của Ngọc Vạn, Sãi Vương cử một sứ bộ sang xin vua Chey Chêtthâ II nhượng khu dinh điền ở vùng Mô Xoài, gần Bà Rịa- Vũng Tàu ngày nay cho ta. Nhờ sự vận động của hoàng hậu Ngọc Vạn, vua Chân Lạp đồng ý cho người Việt đến đó canh tác.
Vùng này trước khi người Việt đến, còn rất hoang vu, đầm lầy hôi thối, vào cuối thế kỷ XVI tuy đã có một số người Việt đến đây cày ruộng, đánh cá nhưng những cuộc di dân này có tính tự phát, lẻ tẻ. Chỉ từ sau khi công nữ Ngọc Vạn sang Chân Lạp, nhiều đoàn người Thuận Quảng nhất là người Quảng Nam dưới sự bảo trợ của bà mới đến đây ngày càng nhiều.
Đây là lần đầu tiên người Việt chính thức đặt chân lên đất Chân Lạp, và Mô Xoài là bàn đạp để người Việt tiến dần xuống phía nam vì cuộc mưu sinh.
Khi cư dân Việt đông đúc, làm ăn phát đạt, chúa Nguyễn mới xin lập ra sở thuế, cử tướng lĩnh đến đóng đồn giữ gìn an ninh, trật tự.
Chúa Sãi đã lập một sứ quán tại kinh đô Udong để hai bên trao đổi các sứ bộ và thường xuyên liên lạc với nhau. Chúa Sãi cũng cung cấp cho Chey Chêtthâ II thuyền chiến, quân đội và vũ khí để chống với quân Xiêm.
Cuối năm 1621 đầu năm 1622, vua Xiêm xua hai đạo quân sang đánh Chân Lạp. Nhờ sự trợ giúp quân sự của chúa Nguyễn, Chey Chêtthâ II đã tiêu diệt một đạo quân Xiêm ở Bâribaur, còn hoàng đệ Utey đẩy lui đạo quân thứ hai của Xiêm ở Bantey Meas.
Năm sau quân Xiêm tấn công Chân Lạp một lần nữa nhưng cũng bị tổn thất nặng nề và phải tháo chạy về nước.
Đó là lần đầu tiên trong 100 năm qua người Chân Lạp chiến thắng quân Xiêm cởi bỏ được ách đô hộ nặng nề, tàn ác của họ.
Sau chiến thắng đó, năm 1623, chúa Sãi gửi một sứ bộ mang nhiều tặng phẩm đến Udong để tỏ tình thân hữu và bảo đảm sự ủng hộ của triều đình Huế với Chey Chêtthâ II cùng một bức thư ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor ( Chợ Lớn) và Kas Krobei (Sài Gòn) để lập các trạm thuế thương chính trong thời gian 5 năm.
Với sự can thiệp của Hoàng Hậu Ang Cuv và sự đồng ý của các vị thượng quan trong triều đình Chân Lạp, Chey Chêtthâ II đã chấp thuận yêu cầu của chúa Sãi.
Tuần ty là cơ quan thu thuế ở bất cứ nơi nào trong nước từ biên giới, núi rừng, hải cảng và các nơi có giao lưu buôn bán. Tuần ty ngoài việc đóng góp cho ngân sách nhà nước còn là cơ sở để tiến hành ổn định các địa phương và mở đường tiến vào các vùng đất chưa biết rõ để nắm vững thực lực chính trị, kinh tế của đối phương.
Tuần ty Kas Krobei và Prei Nokor là đặc khu kinh tế tài chánh. Tại tuần ty có lập chợ búa, phố xá để hoạt động vừa để nuôi nhân viên vừa nuôi đạo quân bảo vệ. Có lãnh sự quán để điều động thương nhân buôn bán tại vùng tuần ty và đặc biệt là để hoạt động trong lòng đối phương. Những nhà buôn này có vốn liếng, có kinh nghiệm, giỏi võ nghệ và thông thạo ngôn ngữ các dân tộc mà họ thường tiếp xúc và khi cần thiết họ chính là những thông dịch viên cho các quan chức của ta.
Dinh Chiêm là nơi lãnh đạo mọi hoạt động của tuần ty và quan thủ ngự cai trị vùng Sài Gòn- Chợ Lớn. Hội An có nhiều kinh nghiệm mậu dịch, hàng năm đến gió mùa thì gởi các đoàn thuyền chở đặc sản địa phương và hàng ngoại vào buôn bán. Vào ngày chợ phiên, trên các sông nước miền Nam người ta thấy xuất hiện nhiều ghe thuyền chở hàng hóa từ các vùng xa xôi về cùng với đoàn ghe bầu Quảng Nam mang đến những thức ngon vật lạ với giá thật rẻ.
Chỉ trong vòng 5 năm từ ngày công nương Ngọc Vạn kết hôn, người Việt đã có làng xóm từ Biên Hòa(Bà Rịa), Sài Gòn(Bến Nghé), lên tới Châu Đốc (Takeo) đến tận Oudong (Pnom Penh).
G. Maspéro nói rằng:
“Vị vua mới lên ngôi là Chey Chêtthâ II cho xây một cung điện tại Oudong, ở đây ông làm lễ thành hôn với một công chúa con vua An Nam. Bà này rất xinh đẹp, về sau có ảnh hưởng lớn đến vua. Nhờ bà mà một phái đoàn An Nam đã xin và được vua Chey Chêtthâ II cho lập thương điếm ở miền nam Cao Miên, nơi này nay gọi là Sài Gòn”(trích trong cuốn “L’ Empir Khmer”).
Năm 1624, Hoàng Hậu Ang Cuv sinh công chúa Ang Na Ksatri. Công chúa rất được nhà vua yêu quý nhưng cuộc sống hạnh phúc đó không được dài lâu, đến năm 1628, Chey Chêtthâ II băng hà.
Sau khi nhà vua qua đời, sự tranh giành ngôi báu giữa các con của tiên vương Chey Chêtthâ II và các con của nhiếp chính vương Utey làm cho tình hình chính trị của Chân Lạp lâm vào cảnh rối ren, nhiều vị vua bị giết, hoặc chết đột ngột. Nhưng với sự hiền lành đức độ và trí thông minh, Hoàng hậu Ang Cuv đã tạo được ảnh hưởng đối với các ông hoàng trẻ Chân Lạp. Bà tiếp tục sống ở kinh đô Udong và không ngừng giữ một vai trò quan trọng trong đời sống chính trị của Chân Lạp.(Theo nhận định của Mak Phoeun và Po Dharma).
Năm 1628, hoàng thái tử Chau Ponhéa To con của tiên vương Chey Chêtthâ II và bà Thái hậu người Chân Lạp lên nối ngôi, chú là Préah Outey làm Phụ chính. quốc vương To rất kính trọng và yêu mến bà Ang Cuv, tôn bà lên tước vị cao quý Samtec Brah Dav Dhita, với tước vị này bà được cấp 3 tỉnh làm thái ấp và có những quan lại riêng. Chúa Sãi cũng gởi sang Udong 2 quan chức và 500 quân sĩ người Việt để phục vụ và bảo vệ bà.
Năm 1632, quốc vương To qua đời, em của To là Ponhéa Nou lên thay, bấy giờ thời hạn hoạt động của hai trạm thuế đã hết, thể theo lời yêu cầu của Thái hậu Ang Cuv, Nou đã gia hạn thêm cho 2 trạm quan thuế của chúa Nguyễn.
Năm 1640, Ponhéa Nou đột ngột băng hà, nhiếp chính vương Utey liền đưa con của mình lên làm vua là quốc vương Ang Non I.
Năm 1642, Ponhéa Chan (Nặc Ông Chân) con của Chey Chettha II và bà vợ người Lào, đã dựa vào một số người Mã Lai và người Chăm theo đạo Hồi giết Ang Non I để giành lại ngôi vua. Chan cưới cô vợ người Mã Lai phong làm Hoàng hậu, bỏ quốc giáo là đạo Phật theo đạo Hồi của vợ làm cho tình hình chính trị của Chân Lạp càng thêm phức tạp. Chan còn giết chú ruột là nhiếp chính vương Utey và nhiều người trong hoàng tộc một cách dã man. Sự thay đổi tôn giáo cùng những hành vi độc ác của Chan khiến cho dân Chân Lạp tức giận, căm ghét, do đó ngày 25 tháng 01 năm 1658, hai người con của Utey là Ang So (Nặc Ông Sô) và Ang Tan (Nặc Ông Tân) dấy binh lật đổ Chan, nhưng bị thất bại, 2 hoàng thân của Chân Lạp phải bí mật gặp Thái hậu Ang Cuv để nương thân và nhờ bà viết thư xin chúa Hiền đưa binh sang giúp. Chúa Hiền (cháu gọi Thái hậu Ngọc Vạn bằng cô ruột) nhận lời, “sai phó tướng dinh Trấn Biên( dinh Phú Yên) là Tôn Thất Yến, cai đội là Xuân Thắng, tham mưu là Minh Lộc đem 3.000 quân đến thành Hưng Phúc ( bấy giờ là Mỗi Xuy tức Bà Rịa) nay thuộc huyện Phước Chánh tỉnh Biên Hòa phá được thành bắt Nặc Ông Chân đem về Quảng Bình”(theo Đại Nam thực lục, T1, tr 72).
Năm 1659, Nặc Ông Chân chết, chúa Hiền phong cho Ang So (Nặc Ông Sô) làm quốc vương Chân Lạp hiệu là Batom Reachea. Từ đó hàng năm Chân Lạp phải triều cống chúa Nguyễn và tạo điều kiện cho di dân Đàng Trong vào lập nghiệp ở Chân Lạp. Ban đầu người Việt ở xen lẫn với người Khmer, khai khẩn đất đai, lập ruộng vườn sinh sống nhưng vì văn hóa bất đồng nên dần dần người Khmer tự bỏ đi nơi khác.
Về sự kiện này, Biên niên sử Chân Lạp ghi: “ Năm 1658, hai vị Hoàng thân Sô và Ang Tan, con Prah Utey đã thoát nạn lúc Quốc vương Ponhéa Chan tàn sát gia đình vị phụ chính 16 năm trước, cầm quân nổi loạn đánh nhà vua. Bị quân triều đình (Chân Lạp) phản công mãnh liệt, hai vị chạy trốn sang cung Hoàng hậu Ngọc Vạn, vợ của tiên vương Chey Chettha II. Hai người nhờ Hoàng hậu xin binh nhà Nguyễn đến giúp khôi phục ngai vàng. Chúa Nguyễn Hiền Vương nhận lời, phái một đạo binh viễn chinh vào tháng 10 năm 1658. Một hạm đội Cao Miên do một vị Hoàng Thân chỉ huy chặn đánh đạo quân Việt Nam, bị thua to ở ngoài biển Bà Rịa. Quân nhà Nguyễn tiến vào bắt Quốc Vương Ponhéa Chan nhốt trong cũi sắt đem về tỉnh Quảng Bình. Quốc Vương băng hà ở đấy. Quân Việt Nam đặt Hoàng thân Sô lên ngôi vua là Batom Réachéa”(tr 10- 11)
Năm 1672, Ponhéa So (Nặc Ông Sô) ở ngôi được 12 năm thì bị một người cháu đồng thời là rể giết để cướp ngôi, em của So là Phó vương Ang Tan lại chạy sang dinh Thái Khang (Nha Trang) cầu cứu. Chúa Hiền chuẩn bị đưa quân sang Chân Lạp nhưng ngay sau đó kẻ cướp ngôi đã bị vợ và con của Ponhéa So giết. Con của Ponhéa So (Nặc Ông Sô) là Ang Chei( Nặc Ông Đài) lên ngôi.
Năm 1674, Nặc Ông Đài dựa thế lực người Xiêm mang quân lấn ép vùng Đồng Nai, xây đắp công sự kiên cố ở Mỗi-xuy, làm xiềng sắt giăng ngang sông Mékong chống lại chúa Nguyễn.
Bị quân Xiêm đánh đuổi, Ang Tan cùng Ang Nan (Nặc Ông Nộn) chạy sang kêu cứu chúa Nguyễn. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần sai Cai cơ Nguyễn Dương Lâm và Tham mưu Nguyễn Diên Phái chia quân làm hai cánh cùng tiến đến Oudong. Nặc Ông Đài bỏ thành Nam Vang chạy vào rừng, rồi bị thuộc hạ đâm chết. Ang Tan cũng bệnh chết, giao binh quyền cho Ang Non, tức Nặc Ông Nộn. Nặc Nộn lên làm vua chưa được bao lâu thì bị Nặc Ông Thu (Ang Sor), em của Nặc Ông Đài kéo quân đánh. Nặc Nộn chạy sang Sài Gòn cầu cứu chúa Nguyễn. Nặc Ông Thu ra hàng.
Để giải quyết tình trạng “nồi da xáo thịt” dai dẳng này, chúa Nguyễn cho Nặc Ông Thu làm Chính vương, đóng đô ở Phnom pênh (Nam Vang), cho Nặc Ông Nộn làm Đệ nhị vương, đóng đô ở khu vực gò Cây Mai (thuộc Sài Gòn, nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh).
Đại Nam Thực lục chép: Năm Giáp Dần (1674) “Sai cai cơ đạo Nha Trang dinh Thái Khang là Nguyễn Dương Lâm(con quận công Nguyễn Văn Nghĩa là thống suất dinh Quảng Bình) đem quân cứu nước Chân Lạp. Trước là Nặc Ông Đài nước Chân Lạp mưu làm phản, làm cầu phao và xích sắt, đắp thành Nam Vang, nhưng còn sợ vua là Nặc Nộn, chưa dám hành động, bèn ngầm cầu viện nước Xiêm La, nói phao rằng vua Xiêm La đã phát 2 vạn quân bộ, 2 nghìn quân thủy và một nghìn voi ngựa đến hỏi Nặc Nộn về tội cự mệnh. Nặc Nộn cả sợ, chạy về Thái Khang. Dinh thần đem việc báo lên. Chúa nói rằng: “ Nặc Nộn là phiên thần, có việc nguy cấp, không thể không cứu”. Bèn sai Dương Lâm làm Thống binh, tướng thần lại thủ hợp là Nguyễn Diên Phái làm tham mưu, Văn Sùng (không rõ họ) làm Thị chiến, đem quân đi đánh. Bọn Dương Lâm chia binh làm hai đạo, đương đêm đánh úp phá các lũy Sài Gòn (nay là tỉnh lỵ Gia Định) và Bích Đôi (Gò Bích), chặt cầu phao và xích sắt, thẳng tiến vây thành Nam Vang. Nặc Ông Đài hoảng sợ chạy chết. Nặc Thu đến quân môn xin hàng. Tin thắng trận báo về, triều đình bàn rằng Nặc Thu là dòng đích thì phong làm vua chính, đóng ở thành Long Úc (U Đông), Nặc Nộn làm vua thứ nhì, đóng ở thành Sài Gòn, cùng coi việc nước, hằng năm triều cống.”( ĐNTL, tr 89)
Theo Huỳnh Văn Lang viết trong quyển Công Chúa Sứ Giả, thì:
Sau khi Năc Ông Đài mất, Còn lại Ang Tan và Ang Non, hai con của Ponhéa So. Ang Tan chết bệnh, Ang Non là Năc Ông Nộn lên ngôi vua.
Nhưng chỉ 5 tháng sau, tức là cuối năm 1674, em của Nặc Ông Đài là Nặc Ông Thu kéo quân đánh lại Nặc Ông Nộn.
Nặc Ông Nộn chạy về Sàigon, kêu cứu với chúa Nguyễn.
Chúa Nguyễn giải quyết vấn đề “nồi da xáo thịt” nầy bằng cách nhìn nhận cho Nặc Ông Thu làm Chánh vương vì là thuộc dòng nhà bác, đóng đô ở Phnom pênh, cho Nặc Ông Nộn làm Obareach, tức là Đệ nhị vương, đóng đô ở khu vực gò Cây Mai…
Cả hai vị vua Chân Lạp đều phải triều cống xưng thần với chúa Nguyễn tại Kim Long. Vua Nặc Ông Nộn ở Sài Gòn đến khi chết năm 1691 thì toàn quyền cai trị tại đây thuộc về chúa Nguyễn.
Sau hơn 50 năm sống trong chốn vàng son nhưng đẫm máu ấy, Thái hậu Ngọc Vạn đã theo Nặc Ông Nộn về Sài Côn, rồi lui về sống ở Bà Rịa. Nơi đây, bà cho lập chùa Gia Lào (núi Chứa Chan, Đồng Nai), rồi ẩn tu cho đến hết đời.(theo Wikipedia)
Năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược đất Chân Lạp, lập phủ Gia Định trên phần đất đã được những người di dân Việt Nam khai phá, bao gồm huyện Phước Long (có dinh Trấn Biên) và huyện Tân Bình (có dinh Phiên Trấn). Vùng đất Chân Lạp tương ứng với miền Đông Nam bộ ngày nay đã được sáp nhập vào xứ Đàng Trong.
Đại Nam thực lục tiền biên ghi “Bắt đầu đặt phủ Gia Định. Sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh/Kính kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long (nay thăng làm phủ), dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hoà ngày nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình (nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiên trấn (tức Gia Định ngày nay), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và các cơ đội thuyền thuỷ bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất nước nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ những dân xiêu dạt từ Bố Chính trở về Nam cho đến ở cho đông. Thiết lập xã thôn phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệnh thuế tô dung, làm sổ đinh điền (tr 111).
Nhờ cuộc hôn nhân của công nương Ngọc Vạn mà nước ta có được vùng đất Nam bộ trù phú bằng đường lối ngoại giao hòa bình thân thiện còn Chân Lạp thì bảo vệ được chủ quyền độc lập, thoát khỏi hiểm họa mất nước về tay quân Xiêm.
Công lao của bà Ngọc Vạn đối với tổ quốc vô cùng to lớn nhưng rất tiếc là sử sách chưa chính thức vinh danh bà để mọi người dân Việt Nam biết ơn vị công nữ nhà Nguyễn đã mang về cho dân tộc một vùng đất phương nam bao la, một vựa lúa khổng lồ nuôi sống dân tộc.
Để ca ngợi công ơn mở cõi to lớn của hai công nữ Ngọc Vạn và Ngọc Khoa, Á Nam Trần Tuấn Khải (1895 – 1983), một nhà thơ nổi tiếng vào thế kỷ trước có làm bài thơ:
Cảm Vịnh Hai Bà Ngọc Vạn, Ngọc Khoa
Hồng Lạc ta đâu hiếm nữ tài
Nghìn xưa Trưng Triệu đã từng oai
Noi gương Khoa, Vạn, hai công chúa
Một sớm ra đi mở đất đai
Mối tình hữu nghị Việt Chiêm Miên
Thần xỉ mong sao được vững bền;
Chúa Sãi bao năm nhờ diệu kế,
Giữ miền Nam Á đặng bình yên.
Đời vốn quen dùng sức lửa binh,
Gây nhiều thảm họa khổ sinh linh.
Riêng đây ngọc lụa thay gươm giáo,
Trăm họ âu ca hưởng thái bình.
Cũng vì hạnh phúc của muôn dân
Vì nước, vì nhà, xá quản thân.
Lá ngọc cành vàng coi nhẹ bổng,
Hiếu trung cho trọn đủ mười phân.
Những tiếc riêng cho phận nữ hài,
Đem thân giúp nước há nhường trai.
Vắng trang lịch sử, nào ai biết?
Người đã hy sinh vị giống nòi.
Tới nay kể đã mấy tinh sương
Mượn bút quan hoài để biểu dương:
Bà Rịa, Phan Rang ngàn vạn dặm,
Công người rạng rỡ chốn quê hương.
Và một bài thơ của Tân Việt Điểu lấy trong sách Biên Hòa sử lược của Lương Văn Lựu, Không thấy ghi tựa bài:
Ngọc Vạn, Ngọc Khoa giữ một niềm
Vì ai, tô điểm nước non tiên?
Chị lo giữ vẹn tình Miên Việt,
Em nhớ làm tròn nghĩa Việt Chiêm
Bà rịa, Biên Hòa thêm vạn dặm,
Phan Rang, Phan Rí mở hai miền
Non sông gấp mấy lần Ô, Lý
Nam tiến, công người chẳng dám quên.
__ oOo __
Nam Phương Hoàng Hậu, Vị Hoàng Hậu cuối cùng của xứ Việt
Tôn Thất An Cựu
Trong gần sáu mươi năm qua, kể từ khi Triều Nguyễn chấm dứt vào năm 1945 đến nay, có rất nhiều người viết về cựu Hoàng Bảo Đại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn. Nhưng rất ít người nhắc đến bà Hoàng hậu cuối cùng, tức Nam Phương hoàng hậu. Có chăng thì cũng chỉ nhắc đến một vài chi tiết viết chung trong tài liệu nói về vua Bảo Đại. Hoặc nói cho đúng thì chưa có ai viết một tài liệu riêng về Hoàng hậu Nam Phương. Do đó nên cũng rất ít người biết đến một bà Hoàng hậu mà trong thời gian giữ ngôi vị mẫu nghi thiên hạ đã có nhiều đóng góp cho Hoàng tộc Nguyễn Phước và cho xã hội lúc bấy giờ.
Để tưởng nhớ đến một người đàn bà tài sắc, đức hạnh và mẫu mực, đã từng là đệ nhất phu nhân của nước Việt Nam suốt mười một năm, tôi xin ghi lại đôi điều về Nam Phương hoàng hậu mà tôi đã tham khảo theo tài liệu của người bí thư của bà, ông Nguyễn Tiến Lãng, con rể của cố học giả Phạm Quỳnh và một số tài liệu khác thu thập trong cuốn hồi ký của cựu hoàng Bảo Đại và của hai sử gia Pháp là Jean Renaud và Daniel Grandclément như dưới đây:
Nam Phương Hoàng Hậu, khuê danh Nguyễn Hữu Thị Lan hay là Marie Thérèse, sinh năm 1914 tại Gò Công Nam phần, con của đại điền chủ Nguyễn Hữu Hào và là cháu ngoại của ông Lê Phát Đạt, tức huyện Sỹ, một trong những người giàu có nhất miền Nam, có thể sánh ngang hàng với gia đình Bạch công tử ở Bặc Liêu. Ông huyện Sỹ là người đã bỏ tiền ra xây cất ngôi thánh đường nguy nga ở cuối đường Võ Tánh Sài Gòn thường được gọi là nhà thờ huyện Sỹ mà đến nay vẫn còn tồn tại.
Năm 1926, Nguyễn Hữu Thị Lan, 12 tuổi, được gia đình cho sang Pháp tòng học tại trường Couvent des Oiseaux, một trường nữ danh tiếng thuộc loại nhà giàu ở Paris do các nữ tu điều hành. Sau khi thi đậu Tú tài vào năm 1932, cô gái miền Nam theo chuyến tàu của hãng Messagerie Maritime trở về nước. Tình cờ trên chiếc tàu nầy có ông vua Việt Nam hồi loan sau khi hoàn tất việc học, đó là vua Bảo Đại mà hồi đó giới sinh viên ở Pháp thường gọi một cách thân mật là Prince Vĩnh Thụy.
Tuy cùng trên một chiếc tàu bồng bềnh giửa đại dương một thời gian khá lâu nhưng Nguyễn Hữu Thị Lan chưa có cơ hội làm quen với vị Vua trẻ tuổi. Mãi cho đến gần một năm sau, nhân dịp vua Bảo Đại nghỉ mát tại Đà Lạt và do sự sắp đặt của Toàn quyền Đông Dương, viên Đốc Lý (tức Thị Trưởng sau nầy) thành phố Đà Lạt tổ chức một buổi dạ tiệc tại khách sạn Palace (sau gọi làkhách sạn Langbian) để tìm cách cho hai người gặp nhau. Tối hôm đó, trong chiếc áo lụa màu thiên thanh, Nguyễn Hữu Thị Lan đã xuất hiện trước Hoàng đế Bảo Đại để rồi chiếm gọn trái tim của một người có địa vị cao nhất nước.
Tưởng cũng nên nói thêm là trước đây có nhiều nguồn tin nói rằng vua Bảo Đại đã gặp Marie Thérèse trên chuyến tàu thủy từ Pháp về Việt Nam, nhưng căn cứ vào hồi ký của vua Bảo Đại và tiết lộ của Hoàng hậu Nam Phương được chúng tôi trích dẫn dưới đây thì hai người đã gặp nhau trong một hoàn cảnh khác.
Nhờ tòng học ở một trường thuộc nhà Dòng, được các nữ tu chỉ dạy các lễ nghi Tây phương đối với Vua Chúa nên tối hôm đó, lúc vừa diện kiến vua Bảo Đại, Nguyễn Hữu Thị Lan đã quỳ một gối và cúi đầu sát mặt đất để tỏ lòng tôn kính nhà Vua. Lẽ tất nhiên, một vị vua trẻ tuổi và hào hoa như vua Bảo Đại thì làm sao ông có thể không xiêu lòng trước sắc đẹp mỹ miều của Nguyễn Hữu Thị Lan. Và chuyện sẽ đến đã đến: đám cưới của vị thiếu quân hào hoa với một nữ lưu tràn trề hương sắc miền Nam đã diễn ra tại Huế ngày 20-3-1934. Ngay ngày hôm đó Nguyễn Hửu Thị Lan được tấn phong làm Hoàng hậu với danh hiệu Nam Phương. Sự kiện Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong Hoàng hậu ngay sau khi cưới là một biệt lệ đối với các bà vợ Vua thuộc triều Nguyễn. Vì mười hai đời vua Nguyễn trước kia, các bà vợ Vua chỉ được phong tước Vương phi, đến khi chết mới được truy phong Hoàng hậu.
Nhắc đến cuộc nhân duyên với Hoàng hậu Nam Phương, cựu hoàng Bảo Đại đã ghi lại trong cuốn CON RỒNG VIỆT NAM :
“Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm tình. Marie Thérèse thường nhắc đến những kỷ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao và âm nhạc. Cô ta có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng. Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền Nam.
Nếu tôi nhớ không sai thì trước Hoàng hậu Nam Phương, có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ, hình như đức Tiên Đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia đức Thế Tổ Cao Hoàng (tức vua Gia Long) đã được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc khôi phục giang sơn. Chính đó là sự ràng buộc tình cảm giữa Hoàng triều Huế với người dân miền Nam.”
Về phần Hoàng hậu Nam Phương, bà đã nhắc lại “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” như sau: “Hôm đó ông Darle, Đốc Lý thành phố Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phát An tôi (Lê Phát An là anh ruột bà Nguyễn Hữu Hào) và tôi đến dự dạ tiệc ở Hotel Palace. Tôi không muốn đi nhưng cậu An tôi năn nỉ và hứa với tôi là chỉ đến tham dự một chút và vái chào nhà Vua xong là về nên tôi phải đi một cách miễn cưỡng và tôi cũng chỉ trang điểm sơ sài thôi. Chúng tôi đến trễ nên buổi tiệc đã bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồi ngoài hiên thì ông Darle trông thấy, ông ta chạy đến chào chúng tôi rồi nắm tay cậu tôi kéo chúng tôi vô nhà. Vừa đi ông vừa nói: “Ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được”.
Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa nhà. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng mình cúi chào và kính cẩn nói:
-Votre Majesté, Monsieur Lê Phát An et sa nièce, Mademoiselle Marie Thérèse. (Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái, cô Marie Thérèse)
Nhờ các nữ tu ở trường Couvent des Oiseaux từng chỉ dạy nên tôi biết phải làm gì để tỏ lòng tôn kính đối với bậc Quân Vương, vì vậy tôi đã không ngần ngại đến trước mặt Hoàng Đế, qùy một gối và cúi đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy tôi mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng nhạc vừa trổi theo nhịp điệu Tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện.
Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngài rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà Vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là người đàn bà Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo đúng cung cách lễ nghi Âu tây đối với Ngài”.
Sau lễ cưới, vua Bảo Đại cùng hoàng hậu Nam Phương dọn về ở tại điện Kiến Trung thuộc khu vực cấm thành. Điện nầy xây cất từ thời vua Khải Định nhưng được sửa chữa và tân trang các tiện nghi Tây phương vào đầu triều vua Bảo Đại.
Tại điện Kiến Trung, Hoàng hậu Nam Phương đã lần lượt hạ sanh 5 người con gồm có:
-Thái tử Bảo Long, sinh ngày 4-1-1936
-Công chúa Phương Mai, sinh ngày 1-8-1937
-Công chúa Phương Liên, sinh ngày 3-11-1938
-Công chúa Phương Dung, sinh ngày 5-2-1942
-Hoàng tử Bảo Thắng, sinh ngày 9-12-1943
Thường ngày, ngoài việc chăm sóc dạy dỗ con cái, thỉnh thoảng hoàng hậu Nam Phương phải cùng các quan ở Bộ Lễ bàn thảo các lễ lạc trong cung đình, lo việc cúng giỗ các Tiên đế và đi vấn an sức khỏe các bà Tiên cung và Hoàng thái hậu Từ Cung, tức mẹ vua Bảo Đại. Tóm lại, bà rất chu toàn bổn phận làm dâu.
Ngoài việc quản trị nội cung như đã nói trên đây, hoàng hậu Nam Phương còn tham gia các việc xã hội và từ thiện. Như đi thăm trường nữ Trung học Đồng Khánh ở đường Jules Ferry (tức Lê Lợi sau nầy), bà thường tiếp xúc với các Giáo sư, nhắc nhở họ cố gắng làm tròn thiên chức của một nhà mô phạm; đi thăm Nữ Công Học Hội ở đường Khải Định (tức đường Nguyển Huệ ngày nay). Theo lời nử sĩ Đạm Phương sau nầy kể lại thì có lần Hoàng hậu Nam Phương bảo bà làm đơn xin phép Bộ Giáo Dục đem môn nữ công gia chánh vào học đường. Hàng năm bà đều tham dự các buổi phát giải thưởng cho các học sinh giỏi tổ chức tại trung tâm Accueil gần nhà dòng Cứu Thế.
Ngày nay, không ai còn lạ lùng khi trông thấy quý vị đệ nhất phu nhân xuất hiện nơi công cộng để giúp chồng trong việc ngoại giao, nhưng cách đây sáu mươi năm, Hoàng hậu Nam Phương giúp vua Bảo Đại trong việc tiếp kiến các nhà ngoại giao là một điều quý hiếm. Vào thời đó, nhiều người ở kinh đô Huế đều biết trong những lần vua Bảo Đại tiếp đón các quốc khách như Thống Chế Tưởng Giới Thạch của Đài Loan, Quốc Vương Soupha Vangvong Lào quốc hoặc Quốc vương Sihanouk của Cao Mên v.v….đều có sự hiện diện của hoàng hậu Nam Phương. Lần vua Bảo Đại tự mình lái xe hơi đi thăm Nam Vang cũng có mặt Hoàng hậu tháp tùng.
Chi tiết đáng kể nhất là việc Hoàng hậu Nam Phương đã đem lại hòa khí giữa các chức sắc đạo Thiên Chúa ở Việt Nam với Hoàng tộc nhà Nguyễn. Vì như chúng ta đã biết, đạo Thiên Chúa với các vị vua triều Nguyễn vốn có những căng thẳng lịch sử thì Nam Phương hoàng hậu, như một làn gió mát, đã thoa dịu sự căng thẳng lịch sử tưởng chừng như không bao giờ thay đổi.
Nhân đây, tưởng cũng nên nhắc lại một hành động chứng tỏ lòng thiết tha với quê hương đất nước của Hoàng hậu Nam Phương mà chúng tôi mới tìm thấy trong tài liệu của sử gia Pháp Jean Renaud do nhà xuất bản Guy Boussac ấn hành năm 1949:
Số là sau khi quân Pháp dựa vào thế lực của quân Anh quốc để gây hấn ở miền Nam với ý đồ tái chiếm thuộc địa Việt Nam. (Xin lưu ý bạn đọc lúc cuộc chiến khởi đầu tại Nam phần là thuần túy giửa thực dân Pháp một bên và một bên là người Việt Nam chống lại sự đô hộ của người Pháp, không giống thực chất cuộc chiến Quốc Cộng sau nầy). Lúc đó vua Bảo Đại đã từ chức, bà Nam Phương đang ở tại An Định cung bên bờ sông An Cựu. Đau lòng trước thảm cảnh mà đồng bào miền Nam, quê hương của bà đang trực tiếp gánh chịu, cựu Hoàng hậu Nam Phương đã gởi một Thông điệp (Message) cho bạn bè ở Au châu yêu cầu họ lên tiếng tố cáo hành động xâm lăng của thực dân Pháp với lời lẽ như sau:
“Kể từ tháng 3 năm 1945, nước Việt Nam đã thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp nhưng vì lòng tham của một thiểu số thực dân Pháp với sự tiếp tay của quân đội Hoàng gia Anh nên hiện nay máu của nhân dân Việt Nam lại tiếp tục chảy trên mãnh đất vốn đã có quá nhiều đau khổ. Hành động nầy của thực dân Pháp là trái với chủ trương của Đồng Minh mà nước Pháp lại là một thành viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những ai đã từng đau khổ vì chiến tranh hãy bày tỏ thái độ và hành động để giúp chúng tôi chấm dứt chiến tranh đang ngày đêm tàn phá đất nước tôi. Thay mặt cho hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu tất cả bạn bè của tôi và bạn bè của nước Việt Nam hãy bênh vực cho tự do. Xin các chính phủ của khối tự do sớm can thiệp để kiến tạo một nền hòa bình công minh và chân chính và xin quý vị nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào của chúng tôi”.
Ký tên:
Bà Vĩnh Thụy
(tức Hoàng hậu Nam Phương.)
Trong một dịp tiếp xúc riêng tư, một người Việt Nam trong ngành ngoại giao trước năm 1975 hiện ở Pháp nói với chúng tôi rằng bức thông điệp trên đây đã được bà Nam Phương gởi đến Tổng Thống Truman của Hiệp Chủng Quốc vào đầu năm 1946 để nhờ can thiệp. Tuy nhiên, đối với một tin tức có tính cách lịch sử nhưng vì không được tận mắt nhìn thấy trên giấy trắng mực đen nên tôi xin ghi lại đây với tất cả sự dè dặt thường lệ.
Bà Hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn đã trút hơi thở cuối cùng tại làng Chabrignac, một vùng quê thuộc miền Bắc nước Pháp theo như lời thuật lại sau đây:
Ngày 14 tháng 9 năm 1963, vào khoảng 5 giờ chiều, cựu hoàng hậu Nam Phương cảm thấy mệt bèn cho người nhà đi mời Bác sỹ đến thăm mạch. Sau khi chẩn khám, Bác sĩ cho biết bà bị viêm họng nhẹ, chỉ uống thuốc vài hôm là khỏi. Nhưng không dè, Bác sĩ vừa rời khỏi nhà chừng vài tiếng đồng hồ thì bà cảm thấy khó thở. Ngươi hầu bà bèn nhờ một người Pháp hàng xóm đi mời một Bác sĩ khác, nhưng người Bác sĩ thứ hai chưa đến kịp thì cựu Hoàng hậu Nam Phương đã êm ái lìa đời ngay trong đêm đó khi vừa tròn 49 tuổi. Ngoài hai người giúp việc trong nhà, không có một người ruột thịt nào có mặt bên cạnh bà trong giờ phút lâm chung, vì các con bà đều ở tận Paris để làm việc và đi học.
Đám tang của bà Hoàng hậu Viêt Nam lưu vong được tổ chức một cách sơ sài lặng lẽ như những năm tháng cuối đời của bà. Hôm đưa đám, ngoài hai Hoàng tử và ba Công chúa đi bên cạnh quan tài của mẹ không có một người bà con nào khác. Về phía quan chức Pháp thì chỉ có ông quan đầu Tỉnh Brive la Gaillarde và ông Xã Trưởng Chabrignac.
Trong suốt thời gian tang lễ cựu Hoàng Bảo Đại cũng không có mặt mà sau nầy, kẻ viết bài nầy trong thời gian ở Pháp được nghe kể lại thì khi hay tin mẹ chết, công chúa Phương Liên tức tốc đánh điện tín báo tin cho cựu Hoàng nhưng gặp lúc cựu Hoàng vắng nhà vì bận đi chơi xa với bà Mộng Điệp, vì vậy mà cựu Hoàng Bảo Đại không hay biết gì nên đã vắng mặt trong ngày đám tang của một người mà có thời đã cùng ông đầu ấp tay gối. Sự kiện đó đã gây sự hiểu lầm khiến về sau các Hoàng tử và Công chúa đã ôm lòng oán hận người cha mà họ nghĩ là một người chồng không trọn nghĩa thủy chung!
Trong lần trở lại Pháp vào tháng 4 năm 1999, do đề nghị của một người bạn thường giao thiệp với Hoàng tử Bảo Long, từ Paris tôi theo người bạn đi về làng Chabrignac, cách tỉnh Brive la Gaillarde ba mươi cây số để viếng mộ Hoàng Hậu Nam Phương.
Gió chiều nghĩa trang xxxg lộng thổi, trước mắt tôi là một ngôi mộ đơn sơ với tấm bia đá hai mặt ghi hai hàng chữ bằng hai thứ tiếng khác nhau, mặt trước viết chữ Hán, mặt sau viết chữ Pháp như dưới đây:
Bia chữ Hán: ĐẠI NAM NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU CHI MỘ, có nghĩa là:
“Mộ phần của bà Hoàng hậu nước Đại Nam là Nam Phương”.
Bia chữ Pháp: ICI REPOSE L’IMPÉRATRICE D’ANNAM NÉE MARIE THÉRÈSE NGUYEN HUU THI LAN, có nghĩa là : “Đây là nơi an nghỉ của bà Hoàng hậu Việt Nam tên là Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan”.
Tôi lặng nhìn ngôi mộ với những cành hoa đã úa vàng lăn lóc đó đây, lòng bồi hồi nhớ lại hơn năm mươi năm trước, từ nhà tôi đi dọc theo bờ sông An Cựu, mỗi khi đi ngang cung An Định tôi ngẩng nhìn lên bao-lơn, nhiều lần tôi bắt gặp Hoàng hậu Nam phương đang tựa lưng vào tường, mắt đăm đăm nhìn đám lục bình trôi lờ lững giữa giòng sông. Tự nhiên lòng tôi se lại, thương tiếc bà Hoàng hậu của kinh đô Huế thuở nào và buồn cho chính thân tôi, một thời thơ ấu nay đã đi qua! Thuở ấy, có một đôi lần tôi đứng xếp hàng trong hàng ngủ học sinh Tiểu học để đón chào Hoàng hậu. Chúng tôi, với nét mặt rạng rở tay cầm cờ vàng phất lia lịa mỗi khi Hoàng hậu xuất hiện và hướng mắt về phía đám nhóc con Tiểu học. Than ôi! Ngày ấy nay còn đâu?
Tôi kính dâng lên hương linh Hoàng hậu Nam Phương những hàng chữ thô thiển nầy và xin Hoàng hậu chứng giám cho lòng kính trọng vô vàn của người viết khi ghi lại những chi tiết về cuộc đời trong sáng của bà.
e-cadao.com
__ oOo __
Hoàng tử Vĩnh San Joseph, con trai vua Duy Tân: Chọn Nha Trang làm nơi ở lại
Khánh Ninh
Vua Duy Tân là vị vua thứ 11 triều Nguyễn, trị vì từ năm 1907 đến 1916. Ông là con thứ năm của vua Thành Thái và Hoàng phi Nguyễn Thị Định. Vua Duy Tân là người yêu nước chống Pháp, đã dự định khởi nghĩa cùng Việt Nam Quang phục Hội vào ngày 3-5-1916. Sự việc bại lộ, vua Duy Tân bị đày đi đảo La Réunion ở Ấn Độ Dương cùng với cha là vua Thành Thái trong năm 1916. Năm 1945, vua Duy Tân mất tại Cộng hòa Trung Phi trong một tai nạn máy bay. Năm 1987, Hoàng tử Vĩnh San Joseph và người thân đã đưa hài cốt của vua Duy Tân về an táng tại Huế.
“Tôi luôn nghĩ mình là một người con của quê cha đất tổ tìm về cội nguồn vì cha tôi là một người Việt Nam yêu nước. Từ tận đáy lòng, tôi mong được mọi người nhìn nhận như một người Việt hơn là một Việt kiều”, Hoàng tử Vĩnh San Joseph (còn có tên khác là Bảo Quý) – con trai của vua Duy Tân nói với tôi như vậy trong một buổi chiều đầu Xuân. Trong đời, Hoàng tử Vĩnh San Joseph đã nhiều lần trở về Việt Nam để tìm lại gia phả, gốc gác, cội nguồn. Lần trở về gần đây nhất, ông đã quyết định ở lại. Nơi ông dự định gắn bó đến cuối đời là thành phố biển Nha Trang xinh đẹp. Một năm qua, Hoàng tử Vĩnh San Joseph và bà Lebreton Marguerite – người bạn đời đã cùng ông chia sẻ hạnh phúc suốt 34 năm – đã có những tháng ngày thư thái, an nhàn nơi phố biển.
Hồi mới về nước, Hoàng tử Vĩnh San Joseph và phu nhân sống tại một căn hộ trên đường Lê Hồng Phong. Khoảng nửa năm trở lại đây, họ chuyển đến căn nhà thuê tại đường Bắc Sơn, một con phố yên tĩnh gần biển để chiều chiều được tay trong tay, an nhàn tản bộ, ngắm hoàng hôn buông dần trên mặt biển, cảm nhận nhịp sống bình yên, êm ả pha lẫn một chút sôi động của phố biển.
Ở thành phố này, việc người nước ngoài đến sinh sống quá đỗi quen thuộc nên “những người hàng xóm rất thân thiện, gặp là chào ông, chào bà” như nhận xét của bà Lebreton Marguerite, không hề biết cặp vợ chồng này xuất thân từ hoàng tộc.
Tôi đến thăm vợ chồng Hoàng tử Vĩnh San Joseph vào một chiều đầu Xuân. Phòng khách nhỏ, giản dị, trang nhã và lịch sự, có khăn trải bàn và hoa tươi, sinh động hơn với cây thông Noel xinh xắn, được trang trí rực rỡ đón Giáng sinh và năm mới. Hoàng tử Vĩnh San Joseph trông trẻ trung hơn rất nhiều so với tuổi 70 của ông trong chiếc sơ mi kẻ sọc xanh, dường như còn trẻ hơn cả lần tôi gặp ông cách đây tròn 1 năm. Bà Lebreton Marguerite với vẻ người phúc hậu ngồi bên, chỉ thỉnh thoảng xen vào câu chuyện của chồng một nụ cười hoặc vài lời dí dỏm.
Hoàng tử Vĩnh San Joseph là 1 trong 10 người con của vua Duy Tân. Ông sinh năm 1938 tại đảo La Réunion ở Ấn Độ Dương, nơi vua Duy Tân bị lưu đày cùng cha là vua Thành Thái từ năm 1916.
Năm 1945, vua Duy Tân mất tại Cộng hòa Trung Phi trong một tai nạn máy bay. Trong ký ức của Hoàng tử Vĩnh San Joseph, vua cha là một người ưa hoạt động, suốt ngày bận rộn, tính tình điềm đạm, nói ít, làm nhiều.
Vua Duy Tân biết đấu kiếm, đua ngựa, viết báo, làm thơ và còn là người sửa radio rất giỏi. Ông cũng là người đầu tiên lắp máy radio cho đảo La Réunion. Vì vua cha có rất nhiều hoạt động bên ngoài nên việc chăm sóc các con đều do một tay người mẹ đảm nhận. Tuy bận bịu suốt ngày nhưng buổi tối, vua Duy Tân thường chơi violon trước khi đi ngủ và nhắc nhở các con nhớ dậy sớm.
Những kỷ vật vua cha để lại không nhiều, chỉ là chiếc đàn violon, chiếc radio nhưng cái quý nhất là kỷ niệm của những tháng ngày ngắn ngủi sống bên người cha nổi tiếng, niềm tự hào về người cha được cả dân tộc Việt Nam yêu mến.
Vua Duy Tân từng được tướng De Gaull miêu tả trong Hồi ký chiến tranh rằng: “Đó là một nhân vật đầy cương nghị. Mặc dù bị lưu đày ròng rã 30 năm trời, hình ảnh của ông không hề phai mờ trong tâm hồn của dân tộc Việt Nam”. Với Hoàng tử Vĩnh San Joseph, điều ông thấy tiếc nhất là hồi ức về cha không nhiều do vua Duy Tân mất khi ông còn quá nhỏ. Những cảm nhận của ông về vua cha phần lớn có được từ những trải nghiệm cuộc sống và những nghiên cứu về vua Duy Tân sau này.
Sinh ra và lớn lên tại La Réunion, 18 tuổi Hoàng tử Vĩnh San Joseph đến làm việc tại Madagascar suốt 10 năm, rồi chuyển sang làm việc ở Pháp cho đến khi nghỉ hưu. Trong suốt thời gian ấy, với Hoàng tử Vĩnh San Joseph, quê nhà luôn là 2 tiếng thiêng liêng, bởi nửa dòng máu Việt vẫn đang chảy trong ông và tâm hồn Việt vẫn ẩn trong ông bắt đầu từ những thói quen đời thường nhất là văn hóa ẩm thực.
Từ bé, quê hương đã rất thân quen với ông qua những món ăn dân dã của Việt Nam. Sau này, đi nhiều nơi, ông đều tự nấu cho mình các món ăn Việt Nam. Chính vì thế, ông tự nhận mình nấu món ăn Việt Nam rất ngon. Tình yêu Việt Nam đã được ông truyền sang người bạn đời của mình.
Từ sự ngượng nghịu khi lần đầu tiên cầm đôi đũa, đến nay, không những đã quen với món ăn Việt mà bà Lebreton Marguerite còn có thể nấu khá ngon các món ăn Việt Nam. “Không biết cụ thể tên tiếng Việt của từng món ăn này nhưng đó là các món xào củ quả, canh rau” – bà Lebreton Marguerite cho biết. Hiện bữa ăn của ông bà thường có các món ăn Việt Nam. Nghĩa là “nấu cơm” – bà Lebreton Marguerite cười chia sẻ bằng vốn tiếng Việt ít ỏi của mình. Chính từ tình yêu ấy, bà nguyện cùng ông trở về sống trọn đời ở Việt Nam.
Khi được hỏi về cuộc sống hiện nay ở Nha Trang, vợ chồng ông đều bày tỏ sự hài lòng: “Cuộc sống ở Việt Nam thật dễ chịu. Chúng tôi sống ở Nha Trang rất thoải mái, khí hậu điều hòa, không ẩm ướt hay quá nhiều mưa, môi trường trong lành, con người tốt bụng”. Đó là một cuộc sống thực sự thư thái và an nhàn. 2 con trai ông bà đều đã trưởng thành nên bây giờ là lúc họ tận hưởng cuộc sống. Sáng sớm và chiều tối, ông bà dạo biển, trò chuyện hoặc tắm biển. Thỉnh thoảng, ông chở bà đi chơi, mua sắm hay tạt vào một vỉa hè nào đấy ăn uống đúng kiểu bình dân. Nếu không, 2 vợ chồng ở nhà đọc sách, xem ti vi hoặc cùng lên mạng Internet xem báo, viết thư điện tử.
Trong mắt bà Lebreton Marguerite, phu quân mình là người thẳng thắn, tốt bụng. Còn trong mắt Hoàng tử Vĩnh San Joseph, phu nhân mình cũng “mắc bệnh” hỏi rất nhiều như bất kỳ phụ nữ châu Á nào.
Ông muốn mình sống hòa đồng, được coi như bất cứ người Việt Nam nào nhưng ngặt nỗi ông lại không biết tiếng Việt. “Thật tiếc, nếu biết tiếng Việt, tôi đã có thể dạy tiếng Pháp cho trẻ em nghèo” – vị Hoàng tử thở dài. Nghe ông than thở niềm “đau khổ” lớn nhất ấy, tôi chia sẻ: “Tình yêu với quê hương và con người Việt Nam sẽ giúp ông vượt qua mọi rào cản về ngôn ngữ.
Có nhiều cách để ông thể hiện tình yêu ấy” thì ông tươi trở lại. Hỏi ông bà mong muốn điều gì khi mùa Xuân đã chạm ngõ, Hoàng tử Vĩnh San Joseph bày tỏ: “Chúng tôi đã già rồi nên chẳng mong muốn gì cho riêng mình. Trước thềm năm mới, chúng tôi chỉ mong người dân Việt Nam nói chung và người dân TP. Nha Trang nói riêng có cuộc sống tốt hơn”.
Báo Khánh Hòa 28/01/2008
__ oOo __
Về khu di tích nhà Nguyễn ở Gia Miêu Thanh Hóa
Nguyễn Đắc Xuân – 27.01.2009
Trong khai sinh cũng như trong lý lịch nhiều cháu Chúa, con vua mang họ Tôn Thất, Nguyễn Phúc ở Huế thường ghi “chánh quán Gia Miêu Ngọai trang Thanh Hóa”. Nhưng trong số họ ít người có cơ hội về thăm chánh quán của mình và thậm chí cũng không ít người chưa biết cái chánh quán đó như thế nào cả. Chánh quán của họ nhà chúa, họ nhà vua mà hậu duệ của họ còn có người chưa biết huống chi dân bá tánh ở trên đất Cố đô nầy? Do đó, nhân buổi đầu xuân 2009, tôi xin giới thiệu đôi nét về khu di tích gốc gác của nhà Nguyễn ở Gia Miêu sau đây:
Đất Gia Miêu sinh Nguyễn Công Duẩn, công thần khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427), được vua Lê Thái Tổ phong Thái bảo hoành công. Tiếp các đời con, cháu, chắt, chút (Nguyễn Đức Trung – Nguyên Văn Lang – Nguyễn Hoằng Dụ – Nguyễn Kim…) đều lần lượt làm đại thần trong triều. Từ sau đời Lê Thánh Tông (1442 – 1497), nhà Hậu Lê suy yếu dần, đến đời Lê Chiêu Tông (khoảng 1516 – 1522) thì bị Mạc Đăng Dung tiếm quyền. An Thanh Hầu Nguyễn Kim (con Nguyễn Hoằng Dụ) dựng cờ phò Lê diệt Mạc, lập con vua Chiêu Tông là Lê Duy Ninh lên ngôi (Lê Trang Tông, 1533 – 1548) khởi đầu thời Lê Trung Hưng. Nguyễn Kim (1467 – 1545) được phong làm Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công, mộ táng tại núi Thiên Tôn thuộc đất Gia Miêu.
Nguyễn Kim có ba người con. Người con gái tên Ngọc Bảo, lấy Dực quận công Trịnh Kiểm, tức chúa Trịnh sau này. Người con trai cả là Nguyễn Uông, bị Trịnh Kiểm sát hại. Người trai thứ là Đoan quận công Nguyễn Hoàng (1525 – 1613), tương truyền theo lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, xin đi trấn thủ xứ Thuận Hoá (1558). Từ đó các chúa Nguyễn – hậu duệ của Nguyễn Kim lập ra xứ Đàng trong mở mang đất nước từ Thuận Hoá xuống tận mũi Cà Mau. Năm 1802, người cháu đời thứ 11 của Nguyễn Kim là Nguyễn Phúc Ánh thống nhất hai xứ Đàng trong và Đàng ngòai thành nước Việt Nam như ngày nay. Sau khi lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long, vua Gia Long và các vua Nguyễn sau đó xây dựng ở Gia Miêu một khu lăng miếu hết sức uy nghi đẹp đẽ để thờ phụng tổ tiên.
Ngày nay muốn đến Gia Miêu, người ta đi qua thị xã Bỉm Sơn (phía bắc Thành phố Thanh Hóa), dọc theo quốc lộ 1A rẽ vào phía bên phải theo đường 17 khoảng 4 km là tới làng Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung (Thanh Hoá). Ở đây có khu di tích Gia Miêu gồm: vùng núi lăng Triệu Tường là nơi táng ông Tổ nhà Nguyễn là Nguyễn Kim, Miếu Triệu Tường thờ Nguyễn Kim, Nguyễn Hòang (con Nguyễn Kim) và Trừng Quốc Công Nguyễn Văn Lựu (thân sinh Nguyễn Kim) và Đình làng Gia Miêu – thờ thành hoàng Nguyễn Công Duẩn.
Làng Gia Miêu trước kia thuộc huyện Tống Sơn (Hà Trung ngày nay) là quê hương gốc rể cội nguồn của Hòang tộc Nguyễn ở Thanh Hóa. Vì tính chất thiêng liêng đặc biệt ấy nên nhà Nguyễn gọi Gia Miêu là đất Quý Hương (tên Nôm gọi là Bái Đền), gọi huyện Tống Sơn là Quý Huyện. Khu di tích nầy có ba địa điểm nổi tiếng:
1. Lăng Triệu Tường.- Tên lăng chính thức là Trường Nguyên. Lăng tọa lạc tại vùng núi Triệu Tường nên thường gọi là lăng Triệu Tường, nơi hợp táng ông bà Nguyễn Kim (tức Triệu Tổ Tĩnh Hòang Đế và Hòang hậu triều Nguyễn – thân sinh và thân mẫu của chúa Tiên Nguyễn Hòang). Như lịch sử đã ghi: Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất dâng quả dưa có thuốc độc hại ông mất vào ngày 28-6-1545, thọ 78 tuổi. Để tránh bị các thế lực thù địch quật phá trừ diệt, họ hàng Nguyễn đã giữ bí mật nơi táng ông và sau đó là bà chánh hậu Nguyễn Thị Mai (Triệu Tổ Tĩnh Hòang hậu). Hơn ba trăm năm sau, khi một hậu duệ của Nguyễn Kim là Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Gia Long (1802), thống nhất nước nhà, triệt hạ hết các thế lực thù địch (họ Mạc, họ Trịnh, nhà Tây Sơn), nhà Nguyễn mới công khai lăng mộ của ông bà Nguyễn Kim ở vùng núi ấy (1805). Ở chân núi Triệu Tường (trước có tên Thiên Tôn) nhà Nguyễn cho xây một sân gạch hình vuông và một nhà sắm lễ, thay quần áo để bái vọng mộ Triệu Tổ (Nguyễn Kim). Đến năm Minh Mạng thứ ba (1822), nhà vua cho dựng ở đây một tấm bia khắc nội dung (bản dịch) như sau: “Đất lớn chúa Thiêng sinh ra Triệu Tổ/ Vun đắp cương thường nên nên rạng thánh võ/ Nghĩa động quỉ thần công truyền vũ trụ/ Cõi trần rời bỏ lăng ở bái trang/ Non nước bao bọc sấm mắt tùng xanh/ Khi thiêng nhóm họp đời đời xưng vinh/ Mệnh trời đã giúp con cháu tinh anh/ Võ công dựng nước bèn tìm gốc nguồn/ Tuy tôn dựng miếulăng gọi Trường Nguyên/ Tân tuy Bắc tuần đến đây dựng lại/ Trông ngắm non sôngnhớ đến gốc cõi/ Khắc chữ vào bia lưu ức vạn tài” (NPT Thế phả, Thuận Hóa 1995, tr.97-98).
Đến năm 1843, vua Thiệu Trị ngự chế một bài thơ và cho xây ở đây một bi đình (nhà bia).
Để giữ bí mật huyệt mộ của ông bà Nguyễn Kim, các sử thần triều Nguyễn đã dựng lên một huyền thọai: Ở vùng núi Triệu Tường vốn đã có một long khẩu (miệng rồng). Đến khi vừa đưa tử cung (quan tài vua) Triệu Tổ Nguyễn Kim vào thì bổng nhiên trời đổ xuống một trận mưa gió sấm sét dữ dội. Người đi đưa tang hoảng sợ chạy tán lọan. Đến khi gió bão đi qua, cơn mưa cũng tạnh mọi người trở lại thì chỉ còn thấy núi đá chi chít, cây cỏ um tùm, không thể nào nhận ra được nơi có long khẩu chứa quan tài của Triệu Tổ ở đâu nữa cả. Về sau có ai hỏi lăng mộ Triệu Tổ Nguyễn Kim an táng nơi đâu, những người có trách nhiệm trả lời: “Ngài được hổ táng, thiêng táng nên không thể biết”. Khi có tế lễ, họ tộc và các chức sắc nhà Nguyễn cũng chỉ hướng vào vùng núi Triệu Tường mà vọng bái thôi.
Rất tiếc, từ sau ngày nhà Nguyễn cáo chung (1945) rồi chiến tranh liên miên, khu vực lăng Trường Nguyên không được chăm sóc, dân Mường được dồn về đây lập nghiệp, thiếu ý thức tôn trọng di tích nên các kiến trúc xưa bị vi phạm hầu như không còn gì. Để nhớ về nguồn cội, nhớ ơn Tiên tổ, mới đây vào hai năm 2006-2007, dòng họ Nguyễn Phúc ở Huế đã đích thân về đây trùng tu khôi phục lại nơi thờ vọng, bia và nhà bia ở chân núi Triệu Tường. Khu vực lăng Triệu Tường mở ra một địa điểm du lịch sinh thái tâm linh rất ý nghĩa.
2. Miếu Triệu Tường.- Với các vua nhà Nguyễn, có lăng (nơi chôn) luôn có miếu (nơi thờ) kèm theo. Đã có lăng Triệu Tường thì phải có Miếu Triệu Tường. Lăng và miếu thường xây dựng gần nhau, cùng trong một khu vực. Nhưng không hiểu sao, lăng Trường Nguyên (lăng Triệu Tường) táng trong vùng núi Triệu Tường còn Miếu Triệu Tường lại xây dựng ở cánh đồng tại thung lũng chân núi, cách khu vực lăng trên dưới 1 km, sát con đường Thành phố Thanh Hóa đi huyện miền núi Thạch Thành. Miếu Triệu Tường thờ gốc tổ triều Nguyễn, gồm nhiều kiến trúc bố trí trong một khu vực chu vi đo được182 trượng, bao quanh có hồ nước và cầu gạch bắc qua, lại có hai lớp lũy bao bọc. Lũy phía trong được xây dựng năm 1834, có 3 cửa đông, tây, phía nam có tam quan và phía sau có hồ bán nguyệt. Lũy bên ngòai xây năm 1835, có 4 cửa trổ theo 4 hướng. Riêng cửa phía nam có vọng lâu. Vì thế Miếu Tường còn có tên Thành Thiên Tôn hay Thành Triệu Tường. Không gian bên trong thành Triệu Tường chia làm 3 khu vực: Khu vực chính ở giữa xây Nguyên Miếu thờ Nguyễn Kim và Nguyễn Hòang. Khu vực phía đông dựng miếu thờ Trừng Quốc Công (Nguyễn Văn Lựu-thân phụ của Nguyễn Kim), khu vực phía tây dành làm nơi trú ngụ của các quan và gia đình hộ lăng và trại lính canh lăng.
Việc thờ tự bên trong với những khí tự rất đẹp. H. Bretain -một người Pháp có nhiều bài viết về Thanh Hóa, trong bài “Thanh Hóa đẹp như tranh” đăng trên Revue Indochinoise (số 3-4 tháng 3-1922) cho biết: “Gian chính giữa để thờ Nguyễn Kim. Trong một cái khám rất đẹp có để hai tấm bài vị: Một tấm ghi mọi chiến tích của Nguyễn Kim, một tấm ghi duệ hiệu (?) của vợ ông…Trước các bài vị có kê hai cái sập chạm rồng. Bên trái và bên phải là hai rương quần áo thờ. Mỗi lần vua về Nguyên miếu đều cúng tế theo đúng mọi nghi lễ qui định. Người ta trải lên bức sập trong cùng miếu một chiếc chiếu hoa. Trên chiếu lại trải các thảm và gối, một bộ đũa ăn cơm, một bộ đồ uống rượu, một bộ đồ chè, và những cây đèn thiếc. Trên cái sập thứ hai cũng trải chiếu, trên có một cái kỷ thấp sơn son để bày các món ăn. Rồi tiếp đến là hai bàn thờ. Trên bàn thờ phía trong, những ngày có cúng kỵ, bày các mâm quả và các cây đèn bằng thiếc. Trên bàn thờ phía ngòai bày bộ ngũ sự bằng thiếc, những lo hoa, hai con hạc gỗ sơn son thếp vàng, hai khay bằng giấy để sau khi lễ xong thì đem đốt. Khỏang giữa hai bàn thờ là là những cái bàn để dâng bò, dê, lợn cúng tế. Khi nào vua đến cúng bái thì trải một chiếc chiếu trước bàn thờ ngòai.”[1] Do chiến tranh cùng với quan điểm hẹp hòi và bệnh ấu trỉ thời bao cấp, Miếu Triệu Tường đã bị phá hủy hòan tòan.
Trong những năm gần đây, khu di tích lăng miếu Triệu Tường đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) ra quyết định xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, được khai quật thám sát khảo cổ và được chính quyền tỉnh Thanh Hóa giao cho huyện Hà Trung, xã Hà Long phải quản lý bảo vệ, giữ gìn nguyên trạng khu vực di tích, chuẩn bị cho khai quật khảo cổ, lập dự án quy hoạch, bảo vệ để tiến hành lập dự án bảo tồn, tôn tạo, phục dựng, làm sống lại di tích với một vị thế xứng tầm với di tích lịch sử cấp quốc gia, bảo đảm những giá trị tâm linh và vẻ đẹp kiến trúc vốn có.
3. Đình Gia Miêu.- Thờ thành hoàng của làng là Nguyễn Công Duẩn – một công thần thời Bình ngô vệ quốc, có nhiều công trạng được vua Lê Thái Tổ phong làm Thái Bảo Hoành Công. Đình Gia Miêu là một công trình kiến trúc gỗ được vua Gia Long (1804) cho xây dựng để nhớ ơn tiên tổ và cũng là một món quà cho cố hương. Bờ nóc của tiền đường được trang trí công phu, nổi cao chính giữa nóc là hình lưỡng long chầu nguyệt rất thanh thóat. Các bờ dải toả ra bốn góc cũng đều có hình rồng đắp nổi. Diện tích mặt mái lớn nhưng ngôi đình trông vẫn đẹp nhẹ nhàng và thanh thoát. Phía trong ngôi đình, kết cấu vi kèo chủ yếu là theo kiểu “chồng rường , kẻ bẩy”. Về nghệ thuật trang trí, đình Gia Miêu là một công trình kiến trúc – nghệ thuật to lớn, bề thế với nhiều mảng chạm khắc, trang trí cầu kỳ. Những mảng chạm khắc này được thể hiện ở vì nóc, đầu các xà đai, kẻ bẩy, đường diềm… Ngoài ra, còn có các linh vật như: rồng, lân, rùa, hươu… cũng được trang trí hết sức công phu và tinh tế. Nhìn chung, với quy mô kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc còn lại thì đình Gia Miêu được xem như là một công trình tiêu biểu của kiến trúc thời Nguyễn ở Thanh Hoá. Do chiến tranh và sự ấu trỉ của dân chúng địa phương thời bao cấp, đình Gia Miêu bị vi phạm rất đáng tiếc. Đến nay Đình đã được trùng tu phục hồi lại cái dáng vẻ uy nghi ban đầu.
Thư mục:
– Ban NC và BS Lịch sử Thanh Hóa, Tên làng xã Thanh Hóa, tập I, Nxb Thanh Hóa 2000;
– Hội đồng Nguyễn Phúc Tộc, Nguyễn Phúc Tộc Thế phả, Nxb Thuận Hóa 1995;
– Tạp chí Xưa và Nay, số 317 (10-2008)
– Tài liệu điền dã.
– Nguồn: Tập san Thông tin & Truyền thông của sở TT&TT Thừa Thiên Húe, Chào xuân Kỷ sửu 2009, tr.50-52
[1] Trích lại của Phạm Tấn, Lăng miếu Triệu Tường, Xưa và Nay, số 317 (10-2008), tr.41 và 42.