Triều Đại Nhà MẠC
Triều đại Nhà Mạc bắt đầu khi vua Mạc Thái Tổ lên ngôi tháng 6 năm 1527 sau khi giành được quyền lực từ tay vua Lê Cung Hoàng nhà Hậu Lê và chấm dứt khi vua Mạc Mậu Hợp, bị quân đội Lê-Trịnh do Trịnh Tùng chỉ huy đánh bại vào cuối năm 1592, tổng cộng là gần 66 năm. Tuy nhiên, con cháu nhà Mạc như Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan, Mạc Kính Vũ vẫn còn tiếp tục chống lại nhà Hậu Lê thời kỳ trung hưng đến tận năm 1677 tại khu vực Cao Bằng. Thời kỳ 1527-1592 trong lịch sử Việt Nam còn được gọi là thời kỳ Nam-Bắc triều, do nhà Mạc chỉ thực sự có quyền lực từ địa phận Ninh Bình ngày nay trở ra, còn từ Ninh Bình trở vào trên danh nghĩa nằm trong tay các vua Lê. Dưới triều đại Nhà Mạc (1527 – 1593) quốc hiệu là Đại Việt, kinh đô đặt tại Qui Nhơn và Phú Xuân (Huế).
___ ooOoo ___
Những cuộc đổi họ lớn trong lịch sử
Trần Gia Phụng
Ai cũng bảo Mạc Đăng Dung đầu hàng nhà Minh vì quyền lợi gia đình họ Mạc, nhưng giả thiết, một giả thiết không bao giờ có thể quay lại được, Mạc Đăng Dung chống cự quân Minh như họ Hồ, nước ta bị tái đô hộ, thì nhân dân ta còn khổ biết bao nhiêu nữa…
1. Từ họ Lý ra họ Nguyễn
Đầu năm 1226 (tháng 12 năm Ất Dậu), Trần Thủ Đô. tổ chức đảo chánh lật đổ nhà Lý, đưa Trần Cảnh lên ngôi tức Trần Thái Tông (trị vì 1226-1258), lập ra nhà Trần (1226-1400).
Nguyên Trần Thủ Độ ép vua Lý Huệ Tông (trị vì 1211-1224) nhường ngôi cho người con gái mới sáu tuổi là Chiêu Thánh công chúa tháng Mười năm giáp thân (cuối 1224), tức Lý Chiêu Hoàng (trị vì 124-1225). Lý Huê. Tông lên làm thái thượng hoàng, xuất gia đi tu tại chùa Chân Giáo, pháp danh là Huệ Quang thiền sự Trần Thu? Độ sắp đặt cho con cháu của mình là Trần Cảnh, mới tám tuổi, cưới Lý Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng lại nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh tức Trần Thái Tông.
Để củng cố nhà Trần, Trần Thủ Độ kiếm cách tiêu diệt tất cả con cháu nhà Lý. Việc đầu tiên làTrần Thủ Độ bức tử thượng hoàng Lý Huệ Tông. Một hôm ngang qua chùa Chân Giáo gặp thiền sư Huê.Quang đang nhổ cỏ trong vườn, Trần Thủ Độ nói rằng: “Nhổ cỏ phải nhổ hết rễ cái. ” Nghe thế thầy Huệ Quang trả lời: “Lời nhà ngươi nói ta hiểu rồi. “Sau đó, Trần Thủ Độ cho người mời thầy Huê.Quang vào triều bàn việc. Huệ Quang biết ý, vào sau chùa thắt cổ tự vận. (1)
Trần Thủ Độ ra lệnh đem gả các cung nhân và con gái họ Lý cho các tù trưởng các bộ tộc ít người ơ? các vùng núi xa xôi miền biên viễn. Tháng tư năm nhâm thìn (1232), nhân việc ban chữ húy về tiên tổ họ Trần, ông nội của Trần Thái Tông tên là Trần Lý, nên Trần Thủ Độ đưa ra biện pháp quyết liệt là buộc con cháu họ Lý phải đổi thành họ Nguyễn.
Gần cuối năm nhâm thìn (1232), tôn thất nhà Lý tập trung làm lễ tế tổ tiên ở thôn Thái Đường, xã Hoa Lâm (nay thuộc Bắc Ninh). Trần Thủ Độ cho làm nhà tế lễ bằng tre lá trên một cái hầm, khi con cháu nhà Lý tập trung hành lễ, Trần Thủ Độ ra lệnh chôn sống
hết con cháu nhà Lý để dứt điểm một vấn đề làm cho Trần Thủ Độ lo lắng bấy lâu naỵ Sau cuộc thanh trừng khủng khiếp này, con cháu nhà Lý không còn dám về Bắc Ninh làm lễ tế hàng năm, và họ thay tên đổi họ sống lẫn khuất trong dân gian để tránh bi. tiêu diệt. (2)
Đặc biệt hoàng tử Lý Long Tường, con trai thứ của Lý Anh Tông đã bỏ nước ra đi năm 1226, cùng đoàn tùy tùng khoảng 40 người vượt biên sang lập nghiệp ơ? Triều Tiên hay Cao Ly tức Koreạ Tám trăm năm sau, con cháu của hoàng tử này đã về Việt Nam thăm lại đấttổ. (3)
Một câu hỏi cần được đặt ra là tại sao triều đình nhà Trần buộc họ Lý đổi thành họ Nguyễn mà không qua họ khác? Điều này rất khó trả lời vì không có tài liệu cụ thể, chỉ biết được rằng họ Nguyễn là một dòng họ ít người bên Trung Hoa, và ngược lại ho. Nguyễn có nhiều và có sớm ở nước ta. (4) Phải chăng Trần Thủ Độ muốn cho họ Lý hòa lẫn trong số đông người Việt rải rác khắp nước?
2. Họ Trần qua họ Trình
Để quân Minh chóng rút về nước, cuối năm 1427, Lê Lợi chấp nhận giải pháp hòa bình trong danh dự cho cả hai bên: trước đây quân Minh xâm lăng nước ta dưới chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”, nay Lê Lợi đồng ý đưa Trần Cao lên ngôi, xem như quân Minh viễn chinh đã đạt được mục đích ban đầu là đưa người họ Trần trở lại ngôi báu, nay rút về nước trong vinh quang. (5)
Sau khi quân Minh về nước, Trần Cao biết thân phận mình, bỏ trốn về châu Ngọc Ma (Nghệ An), nhưng bi bắt lại, và uống thuốc độc chết. Lê Lợi lên ngôi vua, tức Lê Thái Tổ (trị vì 1428-1433).
Lê Thái Tổ được nước không do một cuộc đảo chánh cung đình mà do công lao chiến đấu của chính ông và gia đình, nên ông ít có thái độ kỳ thị với ho. Trần là họ cầm quyền trước đó. Ông có một sách lược rất khôn khéo là ban quốc tính rộng rãi cho các công thần. Ngay khi vừa lên ngôi năm 1428, Lê Thái Tô? ra sắc chỉ cho ghi chép công trạng của những người
đã theo vua khởi nghĩa, ban chức tước và quốc tính (họ của nhà vua) cho 221 người. Đây là đợt ban quốc tính nhiều nhất trong lịch sử nước ta, đến nỗi vua Tự Đức đã lên tiếng chê rằng “…cho quốc tính nhiều quá như thế nầy thì nhàm lắm.” (6)
Việc làm nầy của Lê Thái Tổ bề ngoài xem ra là một đặc ân, nhưng thật sự là một thủ đoạn chính trị ràng buộc các công thần bằng cách đồng hóa các quan vào họ nhà vua để dễ kiểm soát nhằm tránh hậu hoạn. Lê Thái Tổ là một người rất đa nghi. Những công thần đã cùng ông dày công đóng góp cho công cuộc giải phóng đất nước mà có bất cứ một biểu hiện nào khả nghi tức thì bị Lê Thái Tổ tiêu diệt ngay.
Nạn nhân đầu tiên là Lê Hãn tức Trần Nguyên Hãn. Trần Nguyên Hãn dòng dõi Trần Nguyên Đán, lập nhiều chiến công thời kháng Minh, được phong Hữu tướng quốc và họ Lê năm 1428, sau khi Lê Thái Tổ cầm quyền. Lê Hãn cho rằng “nhà vua có tướng như Việt Vương Câu Tiễn, không thể cùng hưởng yên vui sung sướng được,” nên ông bắt chước Trương Lương, xin rút lui về hưu dưỡng. “Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng,” khi Lê Hãn về ấp Sơn Đông (Sơn Tây ngày nay) hưu dưỡng, ông vẫn bị gièm pha là mưu toan làm phản. Lê Thái Tổ ra lệnh cho người đến bắt. Khi thuyền đến bến sông Sơn Đông, Lê Hãn tự trầm mình qua đời (7) Dĩ nhiên việc trầm mình nầy cũng là một dấu hỏi lớn không bao giờ được trả lời.
Sau Lê Hãn đến Lê Văn Xảo tức Phạm Văn Xảo, bi. Lê Thái Tổ nghe lời gièm pha ra lệnh phải chết và tịch thu nhà cửa cuối năm 1430. Dưới triều con của Lê Thái Tổ là Lê Thái Tông (trị vì 1434-1442), thêm ba vị đại công thần bị giết là Lê Nhân Chú (1434), Lê Sát (1437), và Lê Ngân (1437). Ngoài ra còn có Lê Khả và Lê Khắc Phục bị triệt hạ vào năm 1451 thời vua Lê Nhân Tông (tri. vì 1443-1459).
Sau khi Lê Nghi Dân bị các tướng lãnh phản đảo chánh và lật đổ năm 1460, Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497) được sử sách đánh giá là một minh quân, nhưng lại đi vào vết xe của nhà Trần. Vừa cầm quyền được hai tháng, Lê Thánh Tông hạ chiếu ra lệnh đổi tên những họ nào đã phạm vào chữ huý của Cung Từ hoàng thái hậụ Bà nầy tên huý là Phạm Ngọc Trần, người làng Quần Lai, huyện Lội Dương (Thanh Hóa), vợ của Lê Thái Tổ, mẹ của Lê Thái Tông, tức bà nội của Lê Thánh Tông. Nhà vua cho rằng bà nội của mình tên Trần nên yết thị cho dân chúng khắp nước, nơi nào có họ “Trần” đều phải đổi chép thành chữ “Trình.” (8)
Tại sao thời Lê Thái Tổ, rồi đến Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông, các vua không kỵ huý bà Cung Từ mà Lê Thánh Tông lại kỵ huý ? Phải chăng sau những biến động của triều đình kể từ khi Lê Thái Tông bất đắc kỳ tử năm 1442, và Lê Nhân Tông bị Lê Nghi Dân lật đổ và bắt giết năm 1459, Lê Thánh Tông đã dùng cách kỵ huý (như Trần Thủ Độ trước đây)
để tách ảnh hưởng của họ Trần, hoặc để ngầm đe dọa con cháu họ Trần đừng kiếm cách lợi dụng tình hình để phục hồi triều đại cũ.
Dầu sao, Lê Thánh Tông chưa đi đến chỗ quyết liệt như Trần Thủ Độ, nghĩa là Lê Thánh Tông vẫn chưa tận diệt họ Trần, và để cho những người ho. Trần giữ những chức quan nhỏ như trong đoàn sứ thần gởi sang nhà Minh năm nhâm ngọ (1462) có Trần Bàn, hoặc trong viện Khâm hình của triều đình lúc đó có Trần Phong, nhưng không thấy có nhân vật nào ho.
Trần giữ chức vụ quan trọng mãi đến thời kỳ loạn lạc sau khi Mạc Đăng Dung đảo chánh (1527) mới thấy vài nhân vật họ Trần xuất hiện trở lại trên sân khấu chính trị nước ta.
3. Họ Mạc đổi thành nhiều họ
Mạc Đăng Dung thuộc dòng dõi Mạc Đỉnh Chi, đỗ cử nhân võ và làm đô chỉ huy sứ năm 1508 (mậu thìn), nhờ thời thế dần dần được các vua nhà Lê tin dùng, thăng dần lên chức thái phó tiết chế các doanh quân thủy bộ, tước Nhân Quốc Công triều vua Lê Chiêu Tông (trị vì 1516-1522). Quyền hành càng ngày càng lớn, Mạc Đăng Dung lấn ép vua Lê và cuối cùng đảo chánh lật đổ vua Lê Cung Hoàng (trị vì 1522-1527), tư. mình lên làm vua tức Mạc Thái Tổ (trị vì 1527-1530) lập ra nhà Mạc.
Nhà Mạc cầm quyền từ thời Mạc Thái Tổ đến thời Mạc Mậu Hợp (trị vì 1562-1592), truyền được năm đời trong 65 năm. Trong lịch sử, họ Mạc bị lên án về các lỗi lầm sau đây:
* Tổ chức đảo chánh lật đổ nhà Lê, không trung quân (1527).
* Đầu hàng nhà Minh và cắt đất chia cho nhà Minh (1540).
Trước hết, bất cứ một cuộc đảo chánh nào cũng đều có phản ứng cả. Từ Lê Hoàn, Trần Thủ Đô. đến Lê Quý Ly, tất cả đều bị những cựu quan bảo thủ của triều trước, mất quyền lợi đứng lên phản đối. Mạc Đăng Dung cũng nằm trong trường hợp đó.
Thứ đến, chúng ta cần chú ý: ai là người đã lên án gắt gao họ Mạc? Câu trả lời rất rõ ràng là các sư? quan nhà Lê trung hưng là những người đầu tiên lên án họ Mạc. Việc nầy rất dễ hiểu vì nhà Mạc dẹp nhà Lê, nay trung hưng được thì nhà Lê kết tội nhà Mạc. Sau đó là các sử quan nhà Nguyễn vì nhà Nguyễn không muốn ai lật đổ ngôi báu của mình nên lân án tất cả những ai đã tổ chức đảo chánh cung đình.
Nhưng “ở đời muôn sự của chung,” một triều đại (chính quyền) yếu đuối, kém khả năng cần được thay thế bằng một triều đại (chính quyền) khác hữu hiệu hơn để cai trị nước, đó là lẽ tự nhiên, nên việc đảo chánh của Mạc Đăng Dung không đáng bi. lên án như các sách vở trước đây đã làm.
Việc đầu hàng nhà Minh và cắt đất xin hàng cần được xét lại trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Sau khi nhà Lê mất ngôi, hai vị cựu thần nhà Lê là Trịnh Ngung và Trịnh Ngang chạy qua nhà Minh tố cáo hành động của Mạc Đăng Dung và xin nhà Minh đưa quân qua hỏi tội ho. Mạc năm 1529 (kỷ sửu). (9)
Năm 1533 (quý tỵ), Nguyễn Kim tìm được con của Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh, lập lên làm vua là Lê Trang Tông (trị vì 1533-1648) trong lúc đang lưu vong tại Ai Lao.
Lê Trang Tông sai Trịnh Duy Liễu cùng hơn mười người đi đường biển từ Chiêm Thành theo thuyền buôn Quảng Đông tới Trung Hoa xin thỉnh cầu nhà Minh xuất quân đánh nhà Mạc. Năm 1536 (bính thân), một lần nữa Lê Trang Tông sai Trịnh Viên yêu cầu nhà Minh đánh ho. Mạc.
Hành động của vua Lê, kêu gọi người nước ngoài về đánh nước mình, trong đó có ý kiến cố vấn của Nguyễn Kim, không bị một sử gia nào lên án. Việc làm nầy đưa đến kết quả cụ thể là nhà Minh cử Cừu Loan làm tổng đốc, Mao Bá Ôn làm tán lý quân vụ đem binh mã sang ải Nam Quan năm 1540.
Ngược lại, trong thế yếu, muốn tránh một cuộc chiến mà mình nắm chắc phần thất bại, đồng thời dân Việt sẽ một lần nữa bị đặt dưới ách thống trị trực tiếp của ngoại nhân như thời Mộc Thạnh, Trương Phụ, Mạc Thái Tổ, lúc đó đã lên làm thái thượng hoàng, đành chấp nhận đầu hàng và chấp nhận hy sinh danh dự cá nhân, lên ải Nam Quan (Lạng Sơn) chịu nhục. Nhờ sự nhẫn nhục của Mạc Thái Tổ, nước ta trên danh nghĩa là lệ thuộc Trung Hoa, nhưng trong thực tế vẫn độc lập một phương, vua Mạc vẫn cai trị đất đai từ Lạng Sơn trở xuống, đâu có viên tướng Tàu nào bén mảng sang cai trị. Ai cũng bảo Mạc Đăng Dung đầu hàng nhà Minh vì quyền lợi gia đình họ Mạc, nhưng giả thiết, một giả thiết không bao giờ có thể quay lại được, Mạc Đăng Dung chống cự quân Minh như họ Hồ, nước ta bị tái đô hộ, thì nhân dân ta còn khổ biết bao nhiêu nữa.
Đàng nầy, Mạc Đăng Dung một mình chịu nhục cho trăm họ bình yên. Người ta ưa ca tụng Hàn Tín khi nghèo khô? đã lòn trôn tên bán thịt chợ Hoài Âm (Trung Hoa) như là một gương nhẫn nhục đáng noi theo, nhưng chẳng một ai chịu chia xẻ với nỗi nhẫn nhục vĩ đại của Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung rất buồn tủi về sự kiện Nam Quan (Lạng Sơn) nên về nhà chưa được một năm, ông nhuốm bệnh từ trần năm 1541.
Cuối cùng việc cắt đất nghe ra khá to lớn, nhưng đó chỉ là năm động của những sắc tộc ít người nằm ở vùng biên giới Hoa Việt: Ty Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm.Liễu Cát, và La Phù thuộc châu Vĩnh An, ở Yên Quảng. Chúng ta cần chú ý là những sắc tộc ít người sinh sống trong các động dọc biên giới Hoa Việt không nhất định về theo chính quyền Trung Hoa hay Đại Việt, mà chỉ bên nào mạnh thì họ triều cống để được yên thân. Do đó, việc cắt đất nầy chỉ có tính cách giấy tờ chứ trên thực tế là bên nào mạnh họ theo.
Trong khi đó, sau khi trở về Thăng Long, năm 1596 vua Lê Thế Tông (trị vì 1573-1599) cử người đem hình dạng hai quả ấn của nhà Mạc và vua Lê lên Nam Quan cho đại diện nhà Minh khám xét, nhưng quan nhà Minh không chịu, bắt vua Lê phải thân hành đến gặp. Vua Lê phải chấp hành, nhưng khi đến nơi đợi lâu quá không được gặp quan nhà Minh, vua Lê đành trở về, rối năm sau (1597) lên một lần nữa mới được hội kiến. (10) Sư. kiện nầy chẳng khá gì hơn việc Mạc Đăng Dung lên Nam Quan năm 1540.
Vì quá ham lên án nhà Mạc, sử sách lơ là những công trạng đáng nhớ của nhà Mạc. Sau khi Trịnh Tùng chiếm lại Thăng Long, nhà Mạc chạy lên Cao Bằng, rồi chạy sang Trung Hoa. Trước khi từ trần năm 1594, đại tướng nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn để thư lại dặn vua Mạc Kính Cung: “…Họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Còn như dân ta là người vô tội, sao lại nỡ để cho dân mắc vào vòng mũi tên hòn đạn lâu mãi như vậy! Chúng ta nên lánh ở nước khác, cốt phải cẩn thận giữ gìn, đừng lại cố sức chiến đấu với họ nữa. Lại dứt khoát chớ có đón rước người Minh kéo sang nước ta để đến nỗi dân ta phải lần than khốn khổ…” (11)
Đây không phải lời nói suông trong cảnh trà dư tửu hậu, nhưng đây là tâm huyết của một con người sắp nằm xuống trong cơn hoạn nạn cùng cực vì mất nước. Suốt trong lịch sử Việt Nam, chúng ta thường được nghe những lời nói của Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, hào hùng như vó ngựa tổ tiên, nhưng ít khi được đọc những dặn dò như Mạc Ngọc
Liễn, nhân bản, đầy tình tự dân tộc không khác gì lời ru êm ái trong những câu ca dao mộc mạc.
Điểm quan trọng nhất là con cháu nhà Mạc đã không kêu nài van xin người Minh đem quan sang đánh nước ta giống như nhà Lê đã làm. Họ chỉ yêu cầu nhà Minh can thiệp cho họ về sinh sống đất Cao Bằng. Chính ho. đã góp công phát triển Cao Bằng, tạo thế đoàn kết kinh thượng và biến Cao Bằng thành một vùng biên giới vững chắc để chống lại Trung Hoa. Công trạng nầy tuy không rực rỡ như đường về phương nam của chúa Nguyễn, nhưng sử sách cũng không thê? quên tuyên dương họ Mạc.
Khi Trịnh Tùng chiếm được Thăng Long, trung hưng nhà Lê (1593), con cháu họ Mạc tẩu tán khắp nước, một số lên Cao Bằng, một số chạy vào Thanh Hóa, Nghệ An ẩn trốn, và một số vào Nam theo chúa Nguyễn. Con cháu họ Mạc đổi ra rất nhiều họ khác nhaụ Sách Thế phả ghi rõ là con của Mạc Đăng Doanh, em của Mạc Kính Điển là Mạc Cảnh Huống vào Nam theo Nguyễn Hoàng, sau con là Mạc Cảnh Vinh đổi là Nguyễn Hữu Vinh. (12) Không những chỉ một họ Nguyễn, mà chắc chắn còn nhiều họ khác nữạ Trước đây, những ho. nầy không lên tiếng vì một mặt sợ các chính quyền quân chủ trả thù, và một mặt việc sử sách lên án triều đại nhà Mạc ít nhiều gây những ưu phiền cho con cháu họ nhà nầỵ Hy vọng sẽ có một ngày nào đó, con cháu những họ nầy thấy rõ rằng nhà Mạc không đáng bị lên án như người ta đã làm xưa nay, bỏ qua những ưu phiền không đáng, sẽ lên tiếng để tìm về gốc gác ông bà mình.
Qua ba cuộc đổi họ trên đây, lý do chính đưa đến việc đổi họ là do tiên tổ các họ nầy đã lên nắm chính quyền, lập triều đại, sau bị truất phế và bị nghi ngờ nên con cháu bị bắt buộc phải đổi họ. Ngược lại, trong lịch sử nước ta, có một dòng họ lớn từ thời Ngô Quyền lập quốc cho đến nay không thay đổi mà mỗi ngày một phát triển, hưng thịnh. Đó là ho. Nguyễn Phúc ở Gia Miêu ngoại trang, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
4. Một họ lớn không thay đổi
Theo Thế phả, “Đức Định Quốc Công huý là Nguyễn Bặc, thân phụ và thân mẫu của ngài không được rõ, ngài được xem là thuỷ tổ của dòng họ Nguyễn Phúc.” (13)
Nguyễn Bặc (924-979) là bạn chí thân từ thuở hàn vi và là cận thần của Đinh Bộ Lĩnh tức Đinh Tiên Hoàng (trị vì 968-979). Khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua, Nguyễn Bặc được phong Định Quốc Công, đứng đầu các công thần. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng bị ám sát, Nguyễn Bặc bắt giết ngay kẻ thích khách là Đỗ Thích, và tôn phò con của Đinh Tiên Hoàng là Vê. Vương Đinh Tuệ. Lê Hoàn có ý làm phản nhà Đinh, Nguyễn Bặc chống đồi, cầm quân đánh Lê Hoàn, nhưng bị Lê Hoàn bắt giết.
Theo sách Thế phả, tức sách gia phả của dòng họ nầy, từ thời Nguyễn Bặc cho đến ngày nay, thời nào họ Nguyễn ở Gia Miêu ngoại trang (Thanh Hóa) cũng đều có người giữ những địa vị cao trong các triều đại, và thường được phong tước công. Chỉ có một thay đổi nhỏ so với lúc ban đầu là họ nầy lót thêm chữ “Phúc” vào thế kỷ 16. Tương truyền rằng khi sắp sinh, vợ của Nguyễn Hoàng nằm mộng thấy thần nhân cho một tờ giấy viết đầy chữ “Phúc.” Có người đề nghị bà lấy chữ “Phúc” đặt tên cho con, thì bà trả lời rằng: “Nếu đặt tên cho con thì chỉ một người được hưởng phúc, chi bằng lấy chữ “Phúc” đặt làm chữ lót thì mọi người đều được hưởng phúc.”
Bà liền đặt tên con là Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635, cầm quyền 1613-1635). Từ đó, họ Nguyễn ở Gia Miêu ngoại trang đổi thành họ Nguyễn Phúc. (14) Dù có người nghĩ rằng các tác giả Thế phả đương nhiên tâng bốc tổ tiên mình, nhưng không ai có thê? phủ nhận những khuôn mặt lớn trong quá trình lịch sử dân tộc như Nguyễn Bặc, Nguyễn Nộn (?-1229), Nguyễn Kim (1468-1545), Nguyễn Hoàng (1525-1613), Nguyễn Phúc Tần ( 1620-1687, cầm quyền 1648-1687)…
Thời điểm cực thịnh của họ Nguyễn Phúc là việc llên ngôi năm 1802 của Nguyễn Phúc Ánh tức vua Gia Long (trị vì 1802-1819), đóng đô tại Phú Xuân, cai trị một đất nước rộng lớn nhất so với các triều đại trước, từ Lạng Sơn đến Cà Maụ Các vua Nguyễn rất đông con nên ngoài việc lập Tôn nhân phủ (15) như các triều đại trước để quản lý người trong hoàng gia, vua Minh Mạng (trị vì 1820-1840) còn làm một bài đế hệ thi và mười bài phiên hệ làm chữ lót cho con cháu Nguyễn Phúc để phân định thứ bậc các hệ phái từ con cháu của Gia Long trở xuống.
Năm 1945, vua Bảo Đại (trị vì 1925-1945) thoái vị tại Huế, chấm dứt chế độ quân chủ tại nước ta, nhưng ho. Nguyễn Phúc, vốn rất đông người từ thời các vua Nguyễn, vẫn cứ phát triển vững vàng, và có nhiều nhân vật nổi tiếng trong khắp các lãnh vực chính trị, quân sự, văn hóa, học thuật, kinh tế, khoa học… chẳng những ở trong nước mà cả trên thế giới.
CHÚ THÍCH :
1. Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, gọi tắt là Cương mục, bản dịch của Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1957, tt. 448-449.
2. Cương mục, bản dịch, tr. 456.
3. Nguyệt san Làng Văn, Toronto, Canada, số 125, tháng
1-1995, tr. 17.
4. Chỉ cần xem lịch sử danh nhân Trung Hoa, chúng ta thấy rất ít người họ Nguyễn; trong các từ điển danh nhân
Việt Nam, họ Nguyễn rất nhiều. Ngày nay, mở danh ba. điện thoại, chúng ta thấy họ Nguyễn chiếm khoảng gần 50%.
5. Thổ quan châu Ngọc Ma (Nghệ An), tên là Hồ Ông, tự xưng là cháu ba đời vua Trần Nghệ tông (trị vì 1370-1372). Cuối năm bính ngọ (1426), để đáp ứng ý muốn của người Minh trong các cuộc thương thuyết, Lê Lợi cho đón Hồ Ông về, đổi tên là Trần Cao, đặt
lên làm vua, lấy niên hiệu là Thiên Khánh. (Cương mục, bản dịch tt 803-804)
6. Cương mục, bản dịch tt. 864-865.
7. Cương mục, bản dịch tr. 880.
8. Cương mục, bản dịch tr. 1013.
9. Cương mục, bản dịch tr. 1327.
10. Cương mục, bản dịch tt. 1418-1419.
11. Cương mục, bản dịch tr. 1411.
12. Nguyễn Phúc tộc thế phả, Hội đồng trị sư. Nguyễn Phúc tộc, Nxb. Thuận Hóa 1995, tr. 126. Gọi tắt Thế phả.
13. Thế phả, tr. 21.
14. Thế phả, tr. 113. Chú ý: Chữ “Phúc” còn được đọc
là “Phước.”
15. Sau năm 1954, Tôn nhân phủ đổi thành Hội đồng
Nguyễn Phúc tôc.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Ông sinh năm Tân Hợi đời vua Lê Thánh Tông, tức năm Hồng Đức thứ 22 (1491), tại thôn Cổ Am huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm quận công Nguyễn Văn Định; thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lan, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số, nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã tiếp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương.
Ông khôi ngô, tuấn tú, tư chất khác thường, một tuổi ông đã nói sõi, lên năm tuổi được mẹ dạy cho kinh sách, truyền miệng cho thơ văn chữ Nôm, ông học đâu nhớ đấy, không quên chữ nào.
Lớn lên ông theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hoá (Thanh Hoá). Ông sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên được thầy rất khen ngợi.
Tuy vậy, thời bấy giờ trong nước biến loạn, ông không muốn xuất đầu, lộ diện, đành ở ẩn một nơi. Nhưng sau vì có nhiều người khuyên nhủ, ông đi thi và đỗ tiến sĩ cập đệ (trạng nguyên) năm Đại Chính thứ sáu đời Mạc Thái Tông (1535). Vua Mạc cất ông lên làm Tả thị lang Đông các Học sĩ.
Vì ông đỗ trạng nguyên và được phong tước Trình Tuyền hầu nên dân gian gọi ông là Trạng Trình.
Làm quan được 7 năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng không được vua nghe nên xin cáo quan năm 1542.
Khi về trí sĩ, ông dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy học cạnh sông Hàn giang, còn có tên Tuyết giang, do đó học trò gọi ông là “Tuyết giang Phu tử”. Học trò của ông có nhiều người cũng nổi tiếng như Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan – một nhà ngoại giao, Nguyễn Dữ – tác giả Truyền kỳ mạn lục, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quyền…
Ông mất năm Ất Dậu (1585) hưởng thọ 94 tuổi. Lễ tang ông có quan phụ chính triều đình là Ứng vương Mạc Đôn Nhượng dẫn đầu các quan đại thần về viếng. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang nói lên sự trân trọng rất lớn của nhà Mạc với Trạng Trình. Trong buổi lễ tang ấy, Ứng vương đã thay mặt vua truy phong Nguyễn Bỉnh Khiêm tước Thái phó Trình quốc công.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như tập thơ Bạch Vân, gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán (còn lưu lại) và hai tập Trình quốc công Bạch vân thi tập và Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi, (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm) hiện còn lưu lại được một quyển của Bạch Vân thi tập gồm 100 bài và 23 bài thơ trong tập Bạch Vân Gia Huấn mang nhiều chất hiện thực và triết lý sâu xa, thể hiện đạo lý đối nhân xử thế lấy đức bao chùm lên tất cả, mục đích để răn dạy đời.
Khi theo học Lương Đắc Bằng, ông được truyền cho quyển Thái Ất thần kinh từ đó ông tinh thông về lý học, tướng số… Sau này, dù Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn làm quan nhưng vua Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) vẫn phong cho ông tước Trình Tuyền hầu vào năm Giáp Thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, giống như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo bên Trung Hoa.
Sau đó được thăng chức Thượng thư bộ Lại tước hiệu Trình quốc công. Từ đó người đời gọi ông là Trạng Trình.
Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”.
Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là “nhà tiên tri” số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là “Sấm Trạng Trình”.
Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (có tài liệu viết là “khả dĩ dung thân”) nghĩa là “Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài”.
Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá.
Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc “Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể” (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa.
Đối với Lê – Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: “Lê tồn Trịnh tại”.
Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú đã viết trong bộ sách lớn Lịch triều hiến chương lọai chí: “Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở”.
La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp khi về thăm đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm, có bài thơ Quá Trình tuyền mục tự (Qua thăm đền cũ Trình tuyền) đã xem Trình tuyền là người có tài “Huyền cơ tham tạo hóa” (nắm được huyền vi xen vào công việc của tạo hóa).
Tiến sĩ thời nhà Hậu Lê Vũ Khâm Lân đã làm bia ở đền Trạng Trình và nói rằng danh tiếng Trạng
Như núi Thái sơn, sao Bắc Đẩu
Nghìn năm sau như vẫn một ngày.
Cùng với Tôn Trung Sơn và Victor Hugo, ông là một trong 3 vị Thánh của đạo Cao Đài.
Giai Thoại
Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên là Văn Đạt. Mẹ ông là Nhữ thị vốn tinh thông tướng số và có ước vọng là lấy chồng làm vua hoặc có con làm vua. Do đó trong quá trình dạy dỗ, bà đã truyền cho ông mơ ước ấy rồi.
Một hôm khi bà đi vắng, ông Định ở nhà với con và tình cờ hát:
“Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung”.
Không ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh nhảu ứng đối lại ngay:
“Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung”.
Khi bà về đến nhà, ông rất tâm đắc kể lại chuyện ấy thì bị bà trách nuôi con mong làm vua làm chúa cớ sao lại mong làm bầy tôi (nguyệt chỉ bầy tôi).
Lại một lần khác bà dạy Nguyễn Bỉnh Khiêm câu hát
“Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con tựa ngai vàng”.
Ông Định hoảng sợ vì nếu triều đình hay được sẽ mất đầu về tội khi quân nên sửa lại:
“Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con vịn ngai vàng”.
Nhiều lần như vậy, bà rất bất bình nên bỏ đi. Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên chỉ được ở cạnh bố.
Tương truyền sau đó bà lấy một người họ Phùng và sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Sau chính Khắc Khoan trở thành học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bà Nhữ Thị vẫn không thoả chí vì họ Phùng không có chí làm vua.
Mãi sau này bà Nhữ tình cờ gặp một trang nam nhi làng chài đang kéo lưới mà bà tiếc nuối vì cho rằng người này có số làm vua, còn tuổi mình đã cao. Người đó chính là Mạc Đăng Dung, vị vua khai triều của nhà Mạc.
___ ooOoo ___
Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Vương triều Mạc
Trần Khuê
Giải Văn Học 2008
67 năm trị vì ở Đông Kinh cộng với 75 năm tồn tại trên đất Cao Bằng đã xác nhận vương triều Mạc có một cơ sở xã hội khá vững chắc, đáng được tìm hiểu và nghiên cứu…
(Tham luận hội thảo khoa học “Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc” do Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm tổ chức, Viện KHXH tháng 10-1991)
Thú vị biết bao khi nghe ông Okakura Kakuzo, một triết nhân Nhật Bản nói rằng: “Chúng ta hãy kính mộ cổ nhân nhiều hơn nữa nhưng hãy bắt chước cổ nhân ít hơn”. Và quan sát tình hình nghiên cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm trong những năm qua, tôi xin phép được thêm rằng: chúng ta cần biết kính trọng người cùng thời, nhưng cần suy tư độc lập để tránh sao chép những suy tư của họ”.
Suy tư và nghiên cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm và thời đại của ông, tôi thấy cần định rõ chuẩn mực và hệ thống hóa mọi chứng cứ lịch sử một cách trung thực, khoa học. Như thế mới hy vọng đánh giá đúng về ông và về cái gọi là “Ngụy triều Mạc” mà ông đã hết lòng phụng sự, từ đó có thể hiểu những gì là tinh hoa của Nguyễn Bỉnh Khiêm để kế thừa và phát huy; những gì là hạn chế của Nguyễn Bỉnh Khiêm và thời đại Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như những danh nhân và những thời đại kế tiếp chưa tập thành để xác định rõ nhiệm vụ của chúng ta hiện nay.
CÓ HAI NGUYỄN BỈNH KHIÊM…
Theo tôi hiểu, ít nhất chúng ta đã có tới hai Nguyễn Bỉnh Khiêm: một Nguyễn Bỉnh Khiêm – đời thường và một Nguyễn Bỉnh Khiêm – huyền thoại.
Huyền thoại hoặc là không thật hoặc là cái thật đã được huyền hóa nghĩa là được cường điệu, tô đậm, phóng đại theo ý chí, ước vọng của người đời. Với huyền thoại, cái mơ ước cao hơn cái thật, niềm hy vọng và lòng sùng tín trùm lên nhân vật và sự kiện; tất cả trở thành thần tượng, tuyệt vời, thiêng liêng, khả kính. Ở đó chỉ còn là sùng tín và hy vọng. Nguyễn Bỉnh Khiêm – huyền thoại và một Nguyễn Bỉnh Khiêm đạo cao đức trọng, giỏi thi ca và có tài tiên tri, một con người siêu việt vượt cao hơn cả mọi thứ vua chúa đương thời, sống vĩnh hằng trong tâm thức của muôn người, muôn đời. Bàn về Nguyễn Bỉnh Khiêm – huyền thoại là chuyện cực khó, vì đó là một hiện tượng đã định hình được khẳng nhận và nhất thành bất biến, không thể thêm bớt nữa.
Tôi thành kính nghiêng mình trước Nguyễn Bỉnh Khiêm – huyền thoại, một hiện tượng thuộc về tâm thức dân tộc và với một ý nghĩa nào dó, đây cũng là một hiện tượng văn hóa dân tộc. Nhưng đứng trên giác độ nghiên cứu khoa học, tôi chú ý nhiều hơn, có thể là chủ yếu, đối với một Nguyễn Bỉnh Khiêm – đời thường.
Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm – đời thường, tôi muốn khảo sát (cho dù tư liệu còn chưa đầy đủ), tôi muốn đánh giá (cho dù chuẩn mực, tiêu chí chưa dễ được số đông chấp nhận) và tôi muốn rút ra những bài học thích đáng, bổ ích cho hôm nay (cho dù những khái niệm này chưa phải đã có chung một thức nhận).
Nhưng có lẽ, điều cần thiết và quan trọng là tôi muốn duyệt lại mấy vấn đề không được quyền tranh cãi nữa vì nó đã nằm trong tâm thức của nhiều thế hệ và đặc biệt là giới khoa học quyền uy đã khẳng định trên mặt sử sách, báo chí không chỉ dăm ba thập kỷ mà dăm ba thế kỷ.
Sở dĩ tôi dám liều mạng và sẵn sàng đón mọi búa rìu thị phi vì tôi ý thức được rằng mình đang nghiên cứu một Nguyễn Bỉnh Khiêm – đời thường, một danh nhân văn hóa kiệt xuất của dân tộc vì lợi ích của sự nghiệp bảo vệ văn hóa dân tộc, vì lợi ích của một cuộc cách mạng và một chế độ mà vài ba thế hệ chúng ta đã đổ mồ hôi và xương máu ra xây dựng nó và hiện tại giữa một thời đại đầy biến cố phi thường, chúng ta lại đang ra sức bảo vệ nó như bảo vệ chính mạng sống của mình. Mấy vấn đề đó là:
1. Vì sao Nguyễn Bỉnh Khiêm lại bỏ ra một nửa sau của đời mình để phụng sự nhà Mạc vốn bị coi là “ngụy triều”?
2. Phải chăng nhà Mạc đã có những mặt tích cực mà hầu hết các sử gia cổ xưa và hiện đại không nhìn thấy hoặc nhìn thấy mà không chấp nhận, còn Nguyễn Bỉnh Khiêm thì lại nhìn thấy và chấp nhận?
3. Nguyễn Bỉnh Khiêm là người chán đời hay yêu đời? Là người của nhàn dật hay của hành động?
4. Về mặt thi pháp, Nguyễn Bỉnh Khiêm có gì hay, có gì dở, có gì hơn, có gì kém so với người đương thời?
5. Trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có những thành tựu gì đóng góp vào sự phát triển và cả vào sự ngưng trệ của ý thức hệ dân tộc?
Nghiên cứu tiểu sử Nguyễn Bỉnh Khiêm, tôi thấy có mấy điểm hết sức lý thú:
1. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn nhà Mạc để phụng sự và đã toàn tâm, toàn ý phụng sự nhà Mạc.
Khi nhà Mạc giành ngôi nhà Lê thì Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ở tuổi 37 (1491-l527). Và khi vua cha Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho vua con là Mạc Đăng Doanh thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa tròn 40 tuổi, nghĩa là đúng vào cái tuổi “tứ thập nhi bất hoặc”. Quan sát và ngẫm nghĩ về thời cuộc 8 năm liền (từ l527-l534), ông quyết định vác lều chõng đi thi và sau khi đã đỗ rất cao (Trạng nguyên), ông làm quan với triều Mạc Đăng Doanh, rồi tiếp theo là các triều Mạc Phúc Hải, Mạc Phúc Nguyên và Mạc Mậu Hợp. Ngoài những đợt nghỉ ngắn hạn, ông chỉ chính thức “huyền xa” (về trí sĩ) vào năm đã ở tuổi 73:
Điểm kiểm hành niên thất thập tam
Huyền xa sai vãn đã ưng tàm.
(Đếm tuổi mình đã bảy mươi ba.
Treo xe hơi muộn, cũng nên thẹn).
Ông còn ân hận vì sức yếu rồi nên không giúp rập nhà vua được nữa:
Trì khu tự hứa ta vô lực
Vinh tiện hà cầu khởi thị tham.
(Vốn tự thẹn đua bay với người, than ôi không đủ sức
Không cầu sang hèn đâu phải là tham).
(Về hưu gửi quan Thượng thư bộ Lại Kế Khê bá Giáp Hải)
Trong khoảng 30 năm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã hết lòng phò 4 triều vua Mạc – hành trạng của ông, thơ văn của ông và các bạn đồng liêu của ông đã minh định điều đó. Và phải lý giải sao cho thỏa đáng khi ông được phong tặng rất nhanh những chức tước quan trọng dưới triều các vua Mạc?
Lý giải sao cho thấu tình đạt lý về hơn hai chục bài thơ nói về việc hộ giá nhà vua đi đánh giặc và không phải chỉ đi một lần? Chỉ cần đọc kỹ 4 bài viết về chuyện “hộ giá…” và sáu bài “Qua sông.. Hữu” cũng đủ hiểu cảm hứng và lòng chân thực của ông. Và tôi nhất trí hoàn toàn với Ngô Đăng Lợi rằng không thể coi lời thơ khen tặng của Lại bộ thượng thư Giáp Hải đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm là “lời nói vu vơ không căn cứ”:
Danh quán Nho gia lôi phấn địa
Lực phù nhật cốc trụ kình thiên;
Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt
Cửu lão quang nghi thế thượng tiên.
(Tiếng tăm ông lừng lẫy làng nho như sấm rền mặt đất
Năng lực của ông phò vua như cột chống đỡ trời
Huân nghiệp trải bốn triều, ông là tài năng kiệt xuất giữa cõi người
Dung nghi rực rỡ của tuổi chín mươi, ông khác gì vị tiên nơi trần thế).
Điểm qua vài nét như vậy đủ thấy, thật đáng nghi ngờ những ý kiến đoán định, suy diễn (mà hầu hết đều sao chép từ Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề) rằng: “Nguyễn Bỉnh Khiêm nghe lời khuyên của bạn hữu hoặc ông ở cái thế không ra không được” (Bùi Duy Tân). Rõ ràng tuổi tác, hành trạng và tác phẩm của ông đã chứng minh rằng ông đi thi ở tuổi 44 và làm quan với nhà Mạc cho đến tận năm 73 là hoàn toàn tự nguyện, chẳng có chứng cứ nào nói lên rằng ông miễn cưỡng hay bị bó buộc.
Việc ông không sớm ra thi để làm quan với nhà Mạc cũng là điều dễ hiểu: ông không thể đem tài năng ra phụng sự cái loại “vua quỷ Lê Uy Mục” và “vua lợn Lê Tương Dực”. Ngay sau khi nhà Mạc đã giành ngôi vua của nhà Lê, ông cũng chẳng vội vã gì: quan sát và suy ngẫm 8 năm ròng, ông mới quyết định ra thi và làm quan với nhà Mạc.
Cân nhắc tính toán thận trọng nhường đó mà các vị nghiên cứu vẫn không chấp nhận. Trong khi đó các vị vẫn không ngớt lời ca tụng ông là tài giỏi, có bản lĩnh vững chắc, có tài tiên tri, tiên giác. Đặc biệt, Vũ Phương Đề lại khẳng định một cách võ đoán và cực kỳ mâu thuẫn: “Sở dĩ có bài thơ trên vì ông biết rõ nhà Lê sẽ được trung hưng (…).
Quả nhiên về sau nhà Lê trung hưng, bốn phương trở lại yên tĩnh, bấy giờ bạn hữu đều khuyên ông ra làm quan, đến năm bốn mươi tư tuổi ông mới chịu ra ứng thí. Khoa Hương thí ấy ông được đỗ đầu, rồi năm sau, tức là năm thứ sáu đời nhà Mạc (1535), lại ra tỉnh thi được đỗ thứ nhất, khi vào thi Đình đối lại đỗ Tiến sĩ đệ nhất danh, được bổ chức Đông các hiệu thư trong thời Thái Tông nhà Mạc, ông có làm hai bài thơ “Xuân thiện ngự tửu”, “Đều dự hạng ưu”, rồi thăng chức Hữu thị lang bộ Hình, sau thời gian ngắn lại thăng chức Tả thị lang kiêm chức Đông các đại học sĩ” (Công dư tiệp ký, tr. 400).
Tiên tri rằng nhà Lê sẽ trung hưng mà lại ra làm quan với nhà Mạc, làm một cách tận tụy để được thăng hết chức này đến tước khác và đến cực phẩm triều đình: Lại bộ thượng thư Thái phó Trình Quốc công. Quả thật là không thể hiểu nổi!
Càng khó hiểu hơn khi thấy rất nhiều người đều cả tin Vũ Phương Đề. Tôi không ngạc nhiên và phàn nàn gì nhiều lắm về các nhà nghiên cứu hiện đại của ta về Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Đáng ngạc nhiên là một trí tuệ lớn như Phan Huy Chú mà vẫn nhẹ dạ sao chép lại Vũ Phương Đề. Nếu tôi không nhầm thì người thận trọng nhất là Lê Quý Đôn – Trong Lê triều thông sử, ông không chép Nguyễn Bỉnh Khiêm vào chư thần truyện, cũng chẳng chép vào nghịch thần truyện. Ông lờ đi, thật rất tiếc! Do đó mọi điều hiểu sai, hiểu nhầm về Nguyễn Bỉnh Khiêm hầu như đều phát xuất từ bản phả ký của Vũ Phương Đề.
Về tinh thần tự nguyện phục vụ nhà Mạc của Nguyễn Bỉnh Khiêm, còn có hàng loạt chứng cứ để xác minh. Chính Vũ Phương Đề đã ghi nhận Nguyễn Bỉnh Khiêm – đời thường của chúng ta có tất cả ba bà vợ. Ba bà này đã sinh hạ 12 người con gồm 7 trai, 5 gái. Trong số 7 trai thì có tới 6 người thành đạt và đều làm quan với nhà Mạc, lập được quân công và được thụ phong những chức tước quan trọng. Nghĩa là không phải riêng ông mà cả nhà ông đã phục vụ nhà Mạc.
Đáng chú ý hơn nữa là Nguyễn Bỉnh Khiêm có một loạt bạn thân trước kia từng làm quan với nhà Lê sau lại ra làm quan với nhà Mạc như: Lễ Độ bá Vũ Cẩn, Văn Đạt bá Nguyễn Mậu, v.v… sau này ông vẫn thân thiết và cùng xướng họa với những người bạn này. Ngay cha con Trạng nguyên Nguyễn Thiến, trọng thần nhà Mạc, sau bỏ theo Lê – Trịnh, ông cũng vẫn chẳng hề cắt đứt tình cảm.
Theo tôi, phải chăng sau này các sử gia và các nhà nghiên cứu cứ nhìn theo con mắt của Tống Nho Hậu Lê triều hoặc Nguyễn triều nên mới trở nên khắt khe. Còn vào thế kỷ 16-17, việc chạy sang phía bên này hay bên kia cũng chẳng có gì lấy làm điều.
Chẳng có gì đến nổi day dứt quá đáng. Cứ xem như danh tướng Nguyễn Quyện chức đến Thái bảo, tước đến Thạch quận công mấy lần chạy qua chạy lại giữa Mạc và Lê -Trịnh là đủ biết. Hồi Lê Thái tổ lại càng rộng rãi: “Những bậc hào kiệt có tài văn võ, mà còn bỏ sót chưa có tiến cử, hoặc bị thù hằn, kìm hãm, hãy tới ngay Sở thiếu phó Lê Văn Linh, tại đây sẽ xét thực tài đức sẽ tâu trình bổ dụng.
Chỉ cốt được người tài đức, chứ không câu nệ về sự đã ra làm quan với nhà Minh, hoặc kẻ sĩ thường”. (Đại Việt thông sử- tr. 82). Sau này Quang Trung cũng rộng rãi như thế. Có lẽ đây là một vấn đề khá thú vị đáng cho các nhà sử học và các nhà tâm lý học quan tâm nghiên cứu.
2. Nguyễn Bỉnh Khiêm coi việc đánh giặc để giúp các vua Mạc và cứu dân là đại nghĩa.
Mấy nhà nghiên cứu của ta hay gán cho Nguyễn Bỉnh Khiêm những tư tưởng mà ông không có. Ông Bùi Duy tân viết: “Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có thái độ gay gắt trong phê phán chiến tranh phong kiến cát cứ (…) trong hoàn cảnh ấy, có lẽ trong thâm tâm ông nghĩ rằng: nếu cách ly các tập đoàn phong kiến ra xa nhau, để mỗi tập đoàn ổn định ở một nơi thì chiến tranh tuy chưa thể dập tắt ngay, cũng có thể hy vọng giảm thiểu được phần nào”. (Văn học Việt Nam tr. l31).
Ông Đinh Gia Khánh cũng diễn một ý tương tự: “Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm trước sau vẫn phê phán nạn cát cứ và chiến tranh phong kiến kia mà! Vậy có lẽ cần giải thích bằng lý do khác!
Rất có thể là Nguyễn Bỉnh Khiêm thấy rằng các tập đoàn phong kiến đánh nhau mãi mà chưa tập đoàn nào chịu tập đoàn nào, cho nên để giảm nhẹ sự đối địch, giảm nhẹ xung đột bằng cách tạm thời tách các tập đoàn ra, mỗi tập đoàn ở một góc và ở xa nhau như thế, thì chúng đỡ đánh nhau”. (Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm tr. 11).
Thế là cả hai ông đều mang huyền thoại trộn lẫn với hiện thực rồi đặt giả thiết và giả thiết theo kiểu đó thực vô cùng tai hại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm. Rồi các ông lại cố vớt vát bênh vực bào chữa cho Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Thế là Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm một việc với động cơ lối, nhưng biện pháp thì tiêu cực và hậu quả thì lại nghiêm trọng.
Việc làm của ông chứa đầy mâu thuẫn nan giải, mâu thuẫn có nguồn gốc từ sự lẩn quẩn, bế tắc của chế độ phong kiến mà ông không thể vượt qua được”. (Bùi Duy Tân). Còn ông Đinh Gia Khánh thì coi: “Đó là mâu thuẫn trong việc làm của Nguyễn Bỉnh Khiêm”.
Thực ra đó không phải là mâu thuẫn của Nguyễn Bỉnh khiêm, đó chính là mâu thuẫn trong tư duy nghiên cứu của các ông. Chỉ khi nào người nghiên cứu dựa trên chứng cứ xác thực, chú ý đến quá trình phát triển biện chứng của sự vật và tránh được lối tư duy định kiến, tiên nghiệm thì mới hy vọng khỏi mắc sai lầm.
Một hệ thống luận cứ hiện thực và lịch sử chứng minh rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm không hề có những mâu thuẫn kiểu đó. Ông không hề đứng trên các tập đoàn phong kiến mà dứt khoát đứng về một phía: tập đoàn nhà Mạc. Ông không hề phản đối chiến tranh chung chung mà phản đối những kẻ gây ra chiến tranh chống vua Mạc.
Nghịch tặc xương cuồng phạm đế kinh
Chủ ưu thần nhục trọng thương tình
(Lũ giặc ngang ngược điên khùng phạm cả vào kinh đô
Chúa lo thì tôi nhục, đáng thương tình biết bao)
(Cảm hứng thi (tam)
Thiên tâm như bất dung gian ngụy
Ứng vị vương sư trợ nhấtn kỳ.
(Lòng trời nếu chẳng dung tha kẻ gian ngụy
Thì hãy một phen trợ sức cho quân nhà vua).
(Quá Hữu Giang (nhị).
Rõ ràng “nghịch tặc”, “gian ngụy” và tất cả những chữ “tặc” khác trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là chỉ tập đoàn Lê-Trịnh; còn các từ “chủ”, “vương sư” hoặc “cửu trùng”, “thánh chủ”, “quân vương”, “đại giá”, v.v… là dùng để chỉ vua nhà Mạc.
Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, những kẻ chống lại vua nhà Mạc là “gian” là “ngụy”; Nguyễn Bỉnh Khiêm theo vua Mạc đánh dẹp bọn gian ngụy để cứu nhân dân thoát cảnh bị “treo ngược”:
Đại giá tây tuần trú thử sơn.
Nhất phương sĩ nữ vọng an toàn
Đảo huyền dân cửu ly hung đạo:
Trắc đát thùy vô xúc thiện đoan.
(Tây hộ quá Lục Yên châu).
(Xa giá lớn đi miền Tây, đóng quân ở núi này,
Khắp vùng trai gái đều trông mong được sống yên ổn.
Lâu nay dân sa vào tay bọn trộm cướp hung dữ như kẻ bị treo ngược;
Không ai là không động lòng từ thiện, tỏ tình thương xót).
(Hộ giá đi miền Tây qua châu Lục Yên).
Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân và một số vị nghiên cứu khác cứ cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm mấy lần đi “tòng nhung” là do “bị vua Mạc ép đi thco quân”. Có lẽ một phần do các vị hiểu nhầm nghĩa từ “cưỡng” trong “cưỡng tòng nhung”, “cưỡng trí tòng nhung”, “cưỡng truy tù”…
Từ “cưỡng” có ba nghĩa: 1. Không chịu khuất (resister, contrarier); 2. Ép buộc (foreer, obliger, contraindre); 3. Gắng sức (s’efforeer).
Vì hiểu nhầm nên ông Đinh Gia Khánh và ông Hữu Thế mới dịch thành “gắng gượng”:
Tuổi quá sáu chục, gắng gượng theo quân.
(Niên du lục thập cưỡng tòng nhung).
Gượng dấn mình dự cuộc viễn chinh.
(Cưỡng trí tòng nhung tán viễn chinh).
Chỉ có ông Lỗ Công hiểu đúng và dịch đúng:
Tuổi già gắng gỏi việc binh nhung
Giết giặc mong vì nước dốc trung.
(Lão lai tương dữ cưỡng tòng nhung
Diệt tặc do hoài báo quốc trung).
Và ông Hữu Thế cũng có một lần dịch đúng:
Già si đần, gặp thời loạn lạc
Gắng theo quân bàn bạc mưu cơ.
(Lão độn trùng phùng thư loạn ly
Dự tham nhung mạc cường truy tùy).
(Cũng nên lưu ý “cưỡng” có thể dùng làm ngoại động từ (verbe transitif) cũng có thể dùng làm nội động lừ (verbe intransitif).
Trong các bài thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm hầu hết từ “cưõng” được dùng làm nội động từ. Do đó chủ ngữ ẩn trong các dòng thơ này không thể là vua Mạc mà chính là một đại từ phản thân (pronom réfléchi) chỉ tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dịch là “gắng sức” hay “gắng gỏi” mới chính xác và mới bảo đảm được sự nhất quán của nội dung tác phẩm vì thực tế Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa bao giờ bị ép buộc và ông cũng chưa bao giờ nói rằng mình bị ép buộc. Ông cho việc “tòng nhung” giết giặc là trách nhiệm của mình đối với vua, với dân.
Ông hành động vì muốn báo dân ơn nước:
“Diệt tặc do hoài báo quốc trung”.
Vì muốn cho nhân dân sống yên vui:
“Đồ thán dân giai nhẩm tịch tê”
(Dân lầm than khổ cực đều được nằm trên nệm chiếu yên ổn).
Ông hành động vì nghĩa:
Trì khu mị đạn hiệu vi cung
Sinh bình chí nghĩa quan hoài thiết
(Ruổi rong chẳng quản thân hèn.
Tấm lòng chí nghĩa vững bền sắt son).
Hơn nữa, vì muốn làm sáng đại nghĩa:
Vị quốc tồn cô minh đại nghĩa
Chỉ kỳ diệt tặc phục thần châu.
(Vì nước bảo toàn ấu chúa, nêu rõ nghĩa lớn
Định thời hạn giết giặc, khôi phục kinh đô).
3. Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài thao lược:
Theo Đinh Gia Khánh thì Nguyễn Bỉnh Khiêm “bị vua Mạc ép đi theo quân. Có lẽ vì vua Mạc muốn dùng uy vọng của ông để tăng thanh thế cho mình, chứ chưa có chứng cớ gì về tài thao lược điều binh khiển tướng của Nguyễn Bỉnh Khiêm cả” (tr. 15).
Ông cũng nhấn mạnh cái ý “cũng vì các vua Mạc kế tiếp nhau tìm cách sử dụng Nguyễn Bỉnh Khiêm cho nên lại có cớ để luôn luôn thăng chức cho ông (…). Vua Mạc trọng thị Nguyễn Bỉnh Khiêm thì mộl phần có thể thực lòng (tôi gạch dưới – T.K) mà cũng vì muốn lợi dụng uy vọng của ông (tôi gạch dưới – T.K)”.
Cái chuyện “ép đi theo quân” rõ ràng không hề có đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Còn chuyện “lợi dụng uy vọng của ông” cũng cần được xem lại. Nhưng cái chuyện “có lẽ”, “có thể là” mà cứ được nhấn đi nhấn lại dưới những ngòi bút có uy vọng như ngòi bút của ông Đinh Gia Khánh quả thật là điều khá gay cấn cho những lớp đến sau.
Theo những chứng cứ mà tôi thu lượm được trong thư tịch xưa trên những văn bản đáng tin cậy thì không hề có chuyện vua Mạc mang theo đi trong hàng quân của mình một ông già đầy uy vọng nhưng lại thiếu tài thao lược. Trước hết phải nói rõ rằng nhà Mạc không hề thiếu những người có tài thao lược, chuyện này tôi sẽ đưa đủ chứng cứ trong phần bàn về nhà Mạc. Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm thiếu tài thao lược hoặc không lập nên công trạng gì đáng kể hẳn vua Mạc không cần phong tặng ông những chức tước quan trọng như thế. Cũng không nên quá tin vào lối nói khiêm nhượng của ông mà tưởng thật rằng ông thiếu tài cán hoặc sự đóng góp mưu kế của ông là không đáng kể:
Đã hai dạo, già yếu theo quân đến phía sông miền Tây
…
Bỗng nghe đồn lũy giặc bị quét sạch không.
Mưu kế vạn toàn ở chốn miếu đường là tài lực của chư tướng.
Thư sinh này sao dám nói đến công lao.
(Qua sông Hữu (sáu bài).
Có một lần, Mạc Phúc Nguyên ở vào tình thế nguy cấp. Ông đã hiến kế và làm chuyển biến được tình hình. Chiến công lừng lẫy này, tác giả Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép rất sơ sài, không hề nói rõ tại sao quân Lê-Trịnh đang thắng lớn ở vùng Kinh Bắc và trên nhiều vùng khác, thế mà đột nhiên Trịnh Kiểm hốt hoảng vội vã rút quân về Thanh Hoa.
Đây là một kế sách rất lớn giúp vua Mạc chuyển bại thành thắng, bảo toàn được đất đai và kinh đô. Trong Công dư tiệp ký, Vũ Phương Đề ghi rất sơ lược. Sau khi thuật khá chi tiết về công lao và mưu trí của Nguyễn Bỉnh Khiêm giúp vua Mạc dụ hàng được Nguyễn Quyện, Vũ Phương Đề viết: “Trong thời gian ấy, đức Thế tổ đã dấy nghĩa binh, thanh thế vang khắp xa gần, đánh nhau mấy trận ở cửa Thần Phù, Khiêm vương Mạc Kính Điển đại bại, Thế tổ thừa cơ tiến binh theo đường núi phía tây ra đánh Kinh Bắc, khiến cho trong ngoài nơm nớp lo sợ, ông hiến kế hư thực, họ Mạc theo đó thi hành, bấy giờ trong cõi mới tạm ổn định” (tr. 403).
Chỉ có Lê Quý Đôn là ghi khá cụ thể, tỉ mỉ:
“Tháng 3 năm Chỉnh Trị thứ 4 (1561), có người hiến kế với Phúc Nguyên rằng: Quân nhà Lê xâm lấn ta rất gay gắt! Ta sở dĩ kiên thành cố thủ để cầm cự lâu dài, là có ý muốn chờ họ thiếu lương sẽ bị bại. Nhưng hiện nay đường vận tải của họ rất thuận tiện, tịch tế lương thảo liên tiếp đầy đủ, họ hoành hành đã hai năm nay, thanh thế rất mạnh. Thì còn chờ đến lúc nào mới thừa cơ đánh phá? Chi bằng dùng cách xuất kỳ bất ý, ngầm dẫn quân tiến thẳng vào Thanh Hoa, đánh ngay vào nơi tâm phúc, thì đạo quân đang vây ở Kinh Bắc và Hải Dương ta không cần đánh cũng sẽ tự giải. Đó là cái kế “đánh nước Ngụy để cứu nước Hàn” của Tôn Tử vậy”.
Phúc Nguyên nghe theo lời tren, bèn sai viên tướng khác thay Kính Điển trấn thủ Kinh Bắc rồi ngầm vời Kính Điển về Kinh sư.
Tháng 7, Kính Điển dùng thuyền vào cướp Thanh Hoa, đánh vào các cửa biển. Các tướng trấn thủ cửa biển là Vũ Sư Thước và Lại Thế Khanh không phòng bị, trong khi hoảng hốt, vội lui quân về giữ Vạn lại. Thái sư được tin trên, bèn gấp rút truyền lệnh cho Hoàng Đình Ái dẫn quân về trấn thủ Thanh Hoa (…). Thái sư cũng trệit hết quân ở các doanh lui về Thanh Hoa” (Đại Việt thông sử tr. 310).
Ghi chép cụ thể, tỉ mỉ và tương đối khách quan là tác phong rất đáng quý của Lê Quý Đôn khi viết Đại Việt thông sử, Kiến văn tiểu lục cũng như nhiều sách khác của ông. Nhưng ở đoạn văn trên lại có một chi tiết không cụ thể (có thể nói đây là hiện tượng hiếm thấy vào loại số 1 của Lê Quý Đôn), đó là chi tiết “có người hiến kế với Phúc Nguyên”.
“Người hiến kế” này là ai? Hiến kế với vua và lại được nhà vua “nghe theo” hẳn không thể là người ít danh vọng và uy tín. Đọc suốt Đại Việt thông sử cũng như Kiến văn tiểu lục, người ta dễ nhận thấy dưới các triều Mạc, nhất là Mạc Phúc Nguyên và Mạc Mậu Hợp, có rất nhiều triều thần hiến kế sách trị nước và giữ nước cho nhà vua.
Nhưng dù người hiến kế có nhiều hay ít uy vọng, dù được nhà vua nghe theo hay không nghe theo; Lê Quý Đôn cũng ghi chép rất cụ thể nội dung kế sách và họ tên kèm theo chức tước của người hiến kế.
Có thể nói trường hợp này là rất ngoại lệ, rất đặc biệt. Cũng như việc Lê Quý Đôn ghi đủ loại chư thần và nghịch thần, và trong Kiến văn tiểu lục, mục Tài phẩm (tài năng và phẩm hạnh), ông ghi mấy chục danh nhân kể cả một số người đã làm quan với “ngụy Mạc” như Lễ bộ thượng thu Hà Nhậm Đại, nhưng tài năng, phẩm hạnh, hành trạng… của Lại bộ thượng thư Thái phó Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thì ông không ghi chép. (Có những nhân vật ít nổi tiếng như Lê Bá Ly mà Lê Quý Đôn ghi về tài năng phẩm hạnh 2 trang giấy đặc tới hơn 500 chữ, một số nhân vật khác cũng còn được một vài trăm chữ.
Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm thì không được ghi tiểu truyện). Lê Quý Đôn chỉ ghi về Nguyễn Bỉnh Khiêm rất sơ sài: Một lần ghi về thi đỗ, một lần ghi về “trí sĩ”, một lần ghi về “tên tác phẩm”. Thế thôi? À, có thêm một lần ông ghi ý kiến của Chu Xán về Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Hồi đầu niên hiệu Khang Hy, nhà Thanh sai Minh Đồ và Chu Xán sang nước ta sách phong, lúc ấy là năm Chính Hòa thứ tư (1683).
Xán có tiếng hay thơ. Ông ta chép những thơ đề vịnh núi sông và bè bạn tặng đáp vừa thất ngôn vừa tứ tuyệt 48 bài, nhan đề là Sứ giao ngâm. Khi về dâng lên triều đình. Trong các bài thơ ấy có câu rằng: “Y quan văn vật trọng Nam cương”, lại tự chua rằng: “Nhân vật nước này, về phần lý học, có Trình Tuyền, Vũ Duệ, Nguyễn Đăng Cảo và Hồ Sĩ Dương; về phần kinh tế có Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Trãi và Lương Thế Vinh; còn về phần văn học có khá nhiểu”.
Như thế thì tiếng tăm tiền bối nước ta vang đến tận Trung Quốc đã lâu. Lại lúc ấy, triều thần có Nguyễn Đình Trụ, Trần Thọ, Tống Nho và Vũ Duy Khương phụng mệnh đón tiếp; Nguyễn Công Vọng, Lê Hy, Nguyễn Đình Cổn và Hoàng Công Điền tiếp đãi ở sứ quán, Nguyễn Trạc Dụng và Nguyễn Công Nho sung vào việc hộ tống; đều có thơ tặng, vừa thất ngôn vừa tứ tuyệt gồm 34 bài. Chu Xán đều chép thành tập nhan đề là Nam giao hảo âm, phụ vào với tập trước, đều khắc vào ván gỗ phát hành. Như thế cũng đủ rõ Văn hiến nước ta được Trung Quốc quý trọng” (Kiến văn tiểu lục – tr. 284-285).
Các nhận vật tiền bối có tiếng tăm mà Chu Xán đã kể đến, Lê Quý Đôn đều có ghi chép tiểu sử và bình luận, riêng Trình Tuyền thì không! Tôi ghi nhận mấy hiện tượng rất lạ này để các nhà nghiên cứu của ta xem xét thêm và cho ý kiến.
Nhân đây, tôi cũng xin phép đính chính vài điều đã được truyền ngoa quá lâu quanh huyền thoại và truyền thuyết về Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cái câu “An Nam lý học hữu Trình Tuyền!” trong Công dư tiệp ký rõ ràng không phải nguyên văn của Chu Xán, mà là lời của Vũ Phương Đề. Vũ Phương Đề đã cắt xén lời chua của Chu Xán và gây ra sự hiểu lầm không nhỏ. Còn câu “Giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản” mà ông Bùi Duy Tân và một số nhà nghiên cứu khác ghi là lời của Trạng Trình cũng không phải. Đó là lời văn suy đoán của Vũ Phương Đề ghi trong Công dư tiệp ký:
“Năm Thuận Bình thứ 8 (1556), Lê Trung Tông mất, không có hoàng nam nối ngôi. Thế tổ do dự không biết lập ai, hỏi Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan cũng không quyết định nổi, nên mới phải sai gia thần ngầm đem lễ vật về tận Hải Dương để hỏi. Ông không trả lời mà chỉ quay lại bảo các gia nhân rằng: “Vụ lúa này không được mấy, chỉ tạ thóc giống không tốt, vậy các người phải đi tìm giống cũ mà gieo mạ!”. Nói xong, ông quay lên xe ra chùa, sai các chú tiểu quét dọn, đốt hương, ngoài ra không hề đá động gì đến chuyện khác, bởi ông đã hơi tỏ cho biết cái thâm ý là “cứ việc thờ Phật thì được ăn oản” (tr. 405).
Lại còn cái câu vẫn truyền miệng là lời của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói bóng gió với sứ giả của Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng cũng cứ được phiên âm sai đi. Chỉ có ông Nguyễn Quân phiên đúng: “Hoành sơn nhất đái, khả dĩ dung thân”. Vũ Phương Đề chép là “khả dĩ”, sau sang sách khác thì thành “vạn đại”. Theo tôi, truyền khẩu thì thế nào cũng được nhưng đã chép vào sách giáo khoa, giáo trình để dạy các cháu học sinh trung học hay đại học thì phải hết sức thận trọng, chính xác. Cổ nhân rất kỵ cái lối “dĩ ngoa truyền ngoa”.
Nhà nghiên cứu văn học Hoài Thanh đã nhầm khi nhận định rằng “Nguyễn Du thật thà đi theo nhà Nguyễn” . Còn tôi, sau khi khảo sát, nghiên cứu thân thế và sự nghiệp Nguyễn Bỉnh Khiêm với những chứng cứ hiện có trong tay, với tất cả sự dè dặt thận trọng, tôi cứ xin phép được khẳng định không nhầm lẫn rằng:
Nguyễn Bỉnh Khiêm không hề miễn cưỡng đi theo nhà Mạc!
Việt Sử Siêu Linh
Hạ Long Lưu Văn Vịnh
Tương truyền ông thông minh từ nhỏ, lên một tuổi đã biết nói, lên bốn đã thuộc thơ và kinh sử do bà mẹ hay chữ và giỏi tướng số chỉ dạy. Bà mẹ đặc biệt này là con gái Thượng Thư Bộ Hộ Tiến sĩ Nhữ Văn Lạn, kén chồng mãi tới năm 30 tuổi gặp ông Văn Định thấy có tướng sinh đại quý tử nên mới chịu kết duyên vợ chồng…
KHAI TỪ
Tập sách nhỏ này được soạn thảo với ba mục đích :
1- Bảo tồn những chuyện siêu linh ẩn hiện bên dòng Việt Sử, những sử liệu này, dù gọi là ngoại sử, dã sử, u linh hay chích quái…cũng vẫn là những khía cạnh cơ bản của con người toàn diện với chiều sâu vô thức và chiều cao siêu thức kết rễ vào đại vũ trụ.
2- Xâu lại thành chuỗi những viên ngọc kỳ bí, khi tập trung trong Việt Điện U Linh Tập hay Lĩnh Nam Chích Quái (thế kỷ XIV), khi rải rác trong Đại Việt Sử Lược, Việt Sử Tiêu Án, Công Dư Tiệp Ký… Việc xắp xếp sơ thảo này quy về hai đề mục : Phong Thủy Địa Lý và Sấm Ký Tiên Tri Việt Nam, phụ thêm phần Tiên Tri Tây Phương để tiện việc tham khảo so sánh.
3- Phần Lược giải Sấm Trạng Trình, xương sống của tập sách, nhằm soi sáng một quốc bảo bị thời gian 500 năm làm phai mờ thay đổi qua bao cuộc bể dâu. Phần này cũng nối lại sợi dây truyền thống 1000 năm Sấm ký từ Vạn Hạnh (thế kỷ X-XI), tới Trạng Trình và Liễu Hạnh Thánh Mẫu, đồng thời phân định chính giả, bảo trì và tồn nghi sử liệu dân gian.
Những chuyện siêu linh huyền bí thời nào và ở đâu cũng có. Chính sử tuy xác tín hơn nhưng ảnh hưởng không rộng lớn và sâu xa bằng ngoại sử, vì ngoại sử bao bọc được phần tàng thức dân tộc, phần này Freud và K. Jung goị là vô thức , vô thức cộng thể hay sơ mẫu (archetype), chính là gốc rễ văn hóa, nguồn suối tâm linh, là mẫu số chung nối kết tập thể.
Dùng lý luận xuông có thể giải thích biến cố lịch sử hời hợt trần tục nhưng không giải thích được rất nhiều diễn biến phi lý của con người sinh hoạt lơ lửng giữa Thiên và Địa, chập chờn giữa Thiện và Ác, lung linh nơi ” âm dương chi giao, quỷ thần chi hội “.
Sử quan duy lý của Hegel, biện chứng duy vật của Marx, lý tưởng chính phủ toàn cầu và tôn giáo toàn cầu (universal state and universal church) của Toynbee… tuy là những cố gắng tìm kiếm chiều hướng lịch sử cho nhân loại, nhưng đều là những công trình phiến diện giản qui con người vào lý trí khô cứng mà quên hẳn khía cạnh siêu lý (irrational) mênh mông của tâm thức, đây mới là động cơ đẩy con người vào lịch sử và đây mới là bánh xe luân chuyển Sử mệnh của Nhân thế, một nhân thế không đơn độc trên mặt đất, không lẻ loi trong đoản kỳ, nhưng gắn bó mật thiết với thời gian vũ trụ đa dạng, trường viễn.
Siêu linh sử quan chấp nhận khía cạnh siêu lý vào khoa học nhân văn, phân định lý số học chân chính với mê tín dị đoan, diễn giải lịch sử bằng những căn tố tàng thức chất chứa hệ quả trùng trùng của lớp lớp hành động, hết thế hệ này sang thế hệ khác, hết vận này sang vận kia. Lý trí chỉ biết tàng trữ dĩ vãng, còn Thần thức mới nhìn thấy tương lai : “Thần dĩ tri lai, trí dĩ tàng vãng” (Dịch Hệ từ), mà tương lai mới là tiếng gọi vang động kỳ diệu của lịch sử loài người ” linh ư vạn vật “.
Lặn sâu xuống tàng thức cộng thể Lạc Việt, cố mang lên vài phiến thạch Sơn tinh Thủy tinh cho các bậc thức giả xây lại ngôi đình đồng qui dân tộc, đấy là tâm nguyện chân thành của người viết tập Việt Sử Siêu Linh này. Tiết Địa Lôi Phục Vọng Viêm Việt.
Tác giả cẩn chí