Welcome to Nguyễn-Thái-Học Foundation   Click to listen highlighted text! Welcome to Nguyễn-Thái-Học Foundation

Phân tích nhân vật khách trong “Bạch Đằng giang phú” – Trương Hán Siêu


Trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, ông cha ta đã ghi lên trang sử nước nhà những trận thuỷ chiến thành công vang dội. Trong số những dòng sông, cửa biển in đậm dấu ấn lịch sử, Bạch Đằng là con sông nổi tiếng nhất, oai hùng nhất. Ngợi ca con sông huyền thoại, Nguyễn Trãi viết Bạch Đằng hải khẩu, Nguyễn Sưởng sáng tác Bạch Đằng giang, và nổi bật hơn cả là Trương Hán Siêu với tuyệt tác Bạch Đằng giang phú. Xuyên suốt tác phẩm nổi bật lên hình tượng nhân vật khách đầy ấn tượng.

Nhà thơ Trinh Đường viết “Bạch Đằng, chói lọi vinh quang của đất nước Việt Nam anh hùng” bởi lẽ trên dòng sông thuộc tỉnh Quảng Ninh này đã diễn ra những trận đánh toàn thắng, để lại tiếng vang muôn đời. Năm 938, Ngô Quyền đuổi sạch quân Nam Hán. Năm 1288, vua Trần đánh tan giặc Mông – Nguyên. Để tái hiện lại những chiến tích này và bày tỏ lòng tự hào về một dân tộc tài trí, anh dũng, tráng sĩ họ Trương cho ra đời Bạch Đằng giang phú. Có lẽ bài phú được môn khách của Trần Hưng Đạo viết sau chiến thắng Mông – Nguyên khoảng 50 năm. Nổi bật trong bài phú là hình tượng nhân vật khách và nhân vật bô lão. Cùng tạo nên tính khách quan cho tác phẩm nhưng trong khi nhân vật bô lão dẫn chuyện thì nhân vật khách lại đóng vai trò khẳng định tầm quan trọng của con người trong cuộc chiến và thể hiện cảm xúc của bài phú. Sự hoá thân tài tình của tác giả vào hình tượng khách góp phần không nhỏ tạo nên thành công của tác phẩm.

Mở đầu Bạch Đằng giang phú, nhân vật khách hiện lên với tình yêu thiên nhiên, học vấn sâu rộng và tráng chí bốn phương:

Khách có kẻ:

Giương buồm giong gió chơi vơi
Lướt bể chơi trăng mải miết.

Lời giới thiệu cho thấy tâm hồn thi sĩ đầy lãng mạn trong nhân vật khách. Là một người ưa thích ngao du đó đây, nhân vật khách “tham quan” nhiều địa danh nổi tiếng của nước bạn như sông Nguyên, sông Tương, đầm Vân Mộng,… qua sách vở mà vẫn thấy chưa đủ với “tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”. Điều này chứng tỏ vốn kiến thức uyên thâm, lòng ham hiểu biết, mong muốn tìm tòi ở nhân vật này. Trương Hán Siêu “học Tử Trường chừ thú tiêu dao” đi du ngoạn thiên nhiên để hoà mình vào thắng cảnh, nghiên cứu lịch sử, trau dồi học thức, giãi bày tâm sự. Đến đây, người đọc bắt gặp bóng dáng của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong

Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

hay Cao Bá Quát trong

Phía bắc núi Bắc, núi muôn lớp
Phía nam núi Nam, sóng muôn đợt,…

Không bày tỏ đạo lý thanh cao như Trạng Trình, không bộc lộ sự chua xót, bất đắc trí như Cao Tử, tác giả đến với thiên nhiên với lòng mong mỏi hiểu biết nhiều hơn về phong cảnh đất nước mình, với niềm tự hào về những chiến công hiển hách của cha ông. Không còn trong những chuyến viễn du tưởng tượng, sông Bạch Đằng, một địa danh thưc hiện lên trước mắt nhân vật trữ tình:

Quả cửa Đại Than,
Ngược bến Đông Triều.
Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một chiều.

Đứng trước di tích lịch sử, tâm trạng nhân vật trữ tình biến đổi từ tự hào, vui tươi đến u buồn ảm đạm.

Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một màu

Nước trời: một sắc,
Phong cảnh: ba thu.

Bạch Đằng đương ở tháng thứ ba của mùa thu, thấm đẫm sắc xanh của nước trời. Được ngắm con sông hùng vĩ, đẹp nên thơ, trong lòng tác giả không khỏi tấm tắc ca ngợi, phấn khởi và tự hào vì được sống trong cảnh thái bình. Đối lập với sự hùng tráng của thắng cảnh trong hiện tại là nét bi tráng của bãi chiến trường trong quá khứ. “Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.” Những từ láy gợi hình, gợi cảm khoác lên con sông Bạch Đằng vẻ đượm buồn, sức mạnh ăn mòn vạn vật của thời gian làm phai mờ dấu tích oai hùng một thời. Không những buồn, nhân vật trữ tình còn hết sức chua xót và thương cảm bởi hậu quả kinh khủng mà chiến tranh để lại trên dòng sông lịch sử: “Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”. Con sông Bạch Đằng đã nhấn chìm bao xương máu, nuốt trôi bao sinh mạng của những nạn nhân trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Tác giả chỉ có thể ngậm ngùi:

Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.

Tâm trạng của Thăng Phủ bấy giờ cũng giống với tâm trạng của những thi sĩ đã từng tới đây. Nguyễn Trãi than:

Việc trước quay đầu ôi đã vắng
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng.

Sau khi lắng nghe những lời kể chân thực và sinh động của các bô lão về hai trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng, nhân vật khách ca rằng:

Anh minh hai vị thánh quân
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh
Giặc tan muôn thuở thăng bình
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.

Lời bình cuối bài phú đã nêu ra chân lý bất biến về vai trò và tầm quan trọng của con người trong cuộc chiến. Khác với quan điểm của Nguyễn Sưởng trong Bạch Đằng giang:

Sự nghiệp Trùng Hưng ai dễ biết
Nửa do sông núi, nửa do người.

Trương Hán Siêu khẳng định yếu tố quyết định thắng lợi của quân ta trên sông Bạch Đằng là nhờ vào mưu lược, tài trí của hai vị vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và sự anh dũng, xả thân vì nghiệp lớn của những tướng sĩ, đặc biệt là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Khi giặc đến, vua hỏi Trần Hưng Đạo nên làm thế nào, ông tâu “Năm nay thế giặc nhàn”. Cái “nhàn” ấy là sự đúc kết kinh nghiệm từ hai cuộc kháng chiến trước, là đoàn kết sức mạnh toàn dân tộc, là biết khoan thư sức dân. Qua đó ta thấy, người đứng đầu một nước không chỉ vận dụng cái tài để bài binh bố trận trên sa trường mà còn lấy chữ “đức” để trị dân: “Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”. Đức độ của nhà vua không chỉ thể hiện chốn điện các mà còn bộc lộ trên sa trường, như Quốc tộ đã viết:

Vô vi nơi điện các
Xứ xứ tức đao binh.

Xuyên suốt bài phú, trong việc xây dựng hình tượng nhân vật khách, Trương Hán Siêu vận dụng nhiều biện pháp nghệ thuật. Trong lời giới thiệu đầu bài, tác giả kết hợp phương pháp liệt kê với bút pháp ước lệ khi nhắc đến những địa danh mà nhân vật trữ tình “đi” qua trong tưởng tượng:

Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt
Nơi có người đi đâu mà chẳng biết.

Tiếp đến, khi miêu tả con sông huyền thoại trong quá khứ và hiện tại, ông sử dụng cả biện pháp tả thực và lối nói phóng đại cùng dùng những từ láy gợi hình như “bát ngát”, “thướt tha”, “san sát”, “đìu hiu”, qua từng câu câu chữ của Thăng Phủ, Bạch Đằng hiện lên đầy kiêu hùng, bi tráng. Chưa hết, góp phần tạo nên thành công cho Bạch Đằng giang phú là cách truyền tải cảm xúc theo từng khung cảnh, giọng điệu của nhân vật khách thay đổi từ vui tươi, hưng phấn, tự hào đến trầm buồn, bi thương và tiếc nuối. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng những câu văn linh hoạt và cách ngắt nhịp bằng chữ “chừ” – từ đệm đặc trưng của thể phú giúp lời lẽ thêm uyển chuyền, nhịp nhàng.

Qua hình tượng nhân vật khách trong Bạch Đằng giang phú, Trương Hán Siêu bộc lộ đôi nét về bản thân: lòng ham học hỏi, tráng chí bốn phương, tình yêu tha thiết với thiên nhiên. Bên cạnh đó, tác giả bày tỏ tâm trạng của ông, cũng như bao người dân đất Việt trước những chiến công hiển hách, oanh liệt trên con sông Bạch Đằng. Đó là niềm tự hào về cha ông, về dân tộc, là lòng yêu nước yêu quê tha thiết, là sự thương xót và nuối tiếc cho chiến tranh thảm khốc. Không chỉ có vậy, tác giả còn khẳng định vai trò của con người trong cuộc chiến, ngợi ca tài đức của các vị thánh quân.

Diệu Vy

Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng) – thơ Trương Hán Siêu

Nội dung

Khách[1] có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ[2] Nguyên, Tương[3],
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ[4], Tam Ngô, Bách Việt[5],
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng[6] chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường[7] chừ thú tiêu dao[8].
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều[9],
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình[10] muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ[11] một màu.
Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu[12],
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô,
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá[13].
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!
Bên sông các bô lão, hỏi ý ta sở cầu[14]?
Có kẻ gậy lê[15] chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau,
Vái ta mà thưa rằng:
Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh[16] bắt Ô Mã[17],
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa[18] phá Hoằng Thao[19].
Đương khi ấy:
Thuyền bè muôn đội, tinh kì[20] phấp phới,
Hùng hổ sáu quân[21], giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa: Tất Liệt[22] thế cường, Lưu Cung[23] chước dối,
Những tưởng gieo roi[24] một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi!
Thế những: Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối!
Khác nào khi xưa:
Trận Xích Bích[25] quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì[26] giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay nước sông tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi!
Tái tạo công lao[27], nghìn xưa ca ngợi.
Tuy nhiên: Từ cõ vũ trụ, đã có giang san.
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an[28].
Hội nào bằng hội Mạnh Tân: như vương sư họ Lã[29],
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ[30]: như quốc sĩ họ Hàn.
Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn[31].
Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.
Đến bên sông chừ hổ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.[32]
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
Sông Đằng một dải dài ghê,
Luồng to sóng lớn dồn về biển Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
“Anh minh hai vị thánh quân[33],
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh[34].
Giặc tan muôn thuở thăng bình.
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao[35].”

[1] Khách: phú cổ thể thường dùng lối “chủ-khách đối đáp”, có nhân vật “khách” kể chuyện cho hấp dẫn. Ở đây có thể là tác giả tự xưng.
[2] Chừ: dịch chữ “hề” trong nguyên tác. Chữ “hề” là một từ đệm có trong Sở từ của Trung Quốc, nhiều bài phú thường dùng xen vào.
[3] Nguyên, Tương, Vũ Huyệt: sông Nguyên, sông Tương ở tỉnh Hồ Nam, Vũ Huyệt ở núi Cối Kê, tỉnh Chiết Giang, đều là phong cảnh đẹp của Trung Quốc.
[4] Cửu Giang: tên sông, sở dĩ gọi là Cửu Giang vì con sông đó do chín con sông nhỏ hợp thành. Ngũ Hồ: có hai nghĩa: Ngũ Hồ là biệt danh của Thái Hồ. Ngũ Hồ là năm hồ (hai khu vực năm hồ, một lấy hồ Động Đình làm trung tâm, một lấy Thái Hồ làm trung tâm).
[5] Tam Ngô: tên một vùng đất cũ của nước Ngô bao gồm ba địa phương. Bách Việt: tên chung chỉ các bộ tộc người Việt cổ sống ở phía nam sông Trường Giang (Trung Quốc).
[6] Vân Mộng: vùng đầm nước rộng lớn của Trung Quốc.
[7] Tử Trường: tên chữ của Tư Mã Thiên, một sử gia nổi tiếng của Trung Quốc thời Hán, người đã từng du lịch nhiều thắng cảnh và di tích lịch sử.
[8] Tiêu dao: thảnh thơi đi đây đi đó, không chút bận tâm.
[9] Đại Than, Đông Triều: tên cửa biển, tên huyện vùng sông Bạch Đằng, Quảng Ninh hiện nay.
[10] Sóng kình: (kình: cá voi) sóng lớn.
[11] Đuôi trĩ: đuôi chim trĩ có hình dài như bánh lái thuyền. Ý tả những con thuyền nối đuôi nhau đi trên sông.
[12] Ba thu: có ba cách hiểu: ba mùa thu (ba năm), ba tháng của mùa thu, tháng thứ ba của mua thu; ở đây theo nghĩa thứ ba.
[13] Tá: từ vừa có nghĩa nghi vẫn, vừa có nghĩa cảm thán, nay ít dùng.
[14] Sở cầu: điều muốn có, muốn tìm.
[15] Gậy lê: gậy làm bằng gỗ cây lê.
[16] Trùng Hưng nhị thánh: Trùng Hưng: một trong hai niên hiệu của Trần Nhân Tông từ năm 1285 đến 1293, nhị thánh: Trần Thánh Tông (thái thượng hoàng) và Trần Nhân Tông (vua).
[17] Ô Mã: tức Ô Mã Nhi, tướng giặc Nguyên bị bắt sống ở trận Bạch Đằng năm 1288.
[18] Ngô chúa: Ngô Quyền.
[19] Hoằng Thao (có cách đọc khác là Hoằng Tháo): con Lưu Cung, vua Nam Hán. Hoằng Thao bị giết ở sông Bạch Đằng năm 938.
[20] Tinh kì: cờ.
[21] Sáu quân: theo cách tổ chức quân đội xưa ở Trung Quốc. Ở đây ý nói quân đội hùng mạnh.
[22] Tất Liệt: tức Hốt Tất Liệt.
[23] Lưu Cung: vua Nam Hán.
[24] Gieo roi: Bồ Kiên nước Tần khi vào đánh nước Tấn có nói: “Cứ như số quân của ta thì chỉ ném roi ngựa xuống sông cũng ngăn dòng nước lại được”. Tác gải mượn ý này để nói quân Nguyên vào đánh nước ta cũng ỷ thế quân đông tướng mạnh.
[25] Xích Bích: dãy núi bên bờ sông Dương Tử. Thời Tam quốc, Chu Du dùng kế hoả công của Gia Cát Lượng đốt thuyền đánh tan 82 vạn quân Tào Tháo trên quãng sông này.
[26] Hợp Phì: tên một huyện thuộc tỉnh An Huy, Trung Quốc, nơi sông Hoài hợp với sông Phì. Tạ Huyền đã đánh tan 100 vạn quân Bồ Kiên ở đây.
[27] Tái tạo công lao: ý ca ngợi các vua Trần đã một lần nữa lập nên chiến công trên sông Bạch Đằng.
[28] Điện an: hoà bình, an ninh vững bền.
[29] Ở đây tác giả ví việc Trần Quốc Tuấn hội quân tại bến Bình Than như việc Lã Vọng giúp Vũ Vương hội quân ở bến Mạnh Tân.
[30] Duy Thuỷ: một con sông ở tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, nơi Hàn Tín – một tướng giỏi của Hán Cao Tổ – dùng mẹo tháo nước đánh thắng quân tề. Hai câu này ý nói trong trận giao tranh với giặc Mông – Nguyên, ta có các tướng vừa giỏi chiến trận vừa mưu lược.
[31] Thế giặc nhàn: thế giặc dễ phá. Đại vương: chỉ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Sau hai lần thất bại, năm 1287, giặc Mông – Nguyên lại sang xâm lược nước ta, vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc Tuấn: “Giặc đến làm thế nào?” Ông tâu: “Năm nay thế giặc nhàn”.
[32] Hai câu này trong nguyên văn là: “Hoài cổ nhân hề vẫn thế – Lâm giang lưu hề hậu nhan”, cần tránh hiểu lầm là lời nhân vật khách tự nói mà vẫn là lời các bô lão nói với khách.
[33] Hai vị thánh quân: tức Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông.
[34] Giáp binh: áo giáp và binh khí.
[35] Đức cao: dịch ý câu “ý đức mạc kinh”, sách Tả truyện có câu “mạc chi dữ kinh”, nghĩa là không gì lớn bằng.

Bạch Đằng là một nhánh sông đổ ra biển thuộc Quảng Ninh, phía gần Thuỷ Nguyên, Hải Phòng, nơi ghi dấu nhiều chiến công trong lịch sử giữ nước của dân tộc. Đáng nhớ nhất là các trận thuỷ chiến: năm 938, Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán, giết Lưu Hoằng Thao; năm 1288, Trần Quốc Tuấn đánh tan quân Mông – Nguyên, bắt sống Ô Mã Nhi. Nhiều tác giả đã viết về đề tài sông Bạch Đằng như: Trần Minh Tông (Bạch Đằng giang), Nguyễn Sưởng (Bạch Đằng giang), Nguyễn Trãi (Bạch Đằng hải khẩu), Nguyễn Mộng Tuân (Hậu Bạch Đằng giang phú),…. Trong đó nổi tiếng nhất là Trương Hán Siêu với Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng). Chưa rõ bài phú được viết năm nào, có lẽ vào khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống giăch Mông – Nguyên thắng lợi.

Phú sông Bạch Đằng mang những đặc trưng cơ bản của thể phú. Phú là một thể văn có vần hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi, dùng để tả cảnh vật, phong tục, kể sự việc, bàn chuyện đời,… Một bài phú thường gồm 4 đoạn: đoạn mở, đoạn giải thích, đoạn bình luận và đoạn kết. Bố cục bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu cũng giống bố cục của bài phú nói chung. Nó được làm theo lối phú cổ thể (loại phú có trước thời Đường, có vần, không nhất thiết phải có đối, cuối bài thường được kết lại bằng thơ). Bản dịch ở đây nói chung theo nguyên điệu, chỉ hai bài ca cuối được chuyển sang thể lục bát.

Theo bản dịch của ĐÔNG CHÂU NGUYỄN HỮU TIẾN, BÙI VĂN NGUYÊN chỉnh lí
(Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập II – Văn học thế kỉ X – thế kỉ XVII, NXB Văn học, Hà Nội, 1976)

CLICK HERE: Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu) – NgoNguyenTran


Click to listen highlighted text!