Welcome to Nguyễn-Thái-Học Foundation   Click to listen highlighted text! Welcome to Nguyễn-Thái-Học Foundation

Triều Đại Nhà HỒ  


Nhà Hồ do Hồ Quý Ly, một đại quý tộc và đại thần nhà Trần thành lập. Từ năm 1371, Hồ Quý Ly, khi đó mang họ Lê, được tham gia triều chính nhà Trần, được vua Trần Dụ Tông cho làm Trưởng cục Chi hậu. Sau, vua Trần Nghệ Tông đưa ông lên làm Khu mật đại sứ, lại gả em gái là công chúa Huy Ninh.

Nhà Trần, sau biến cố Dương Nhật Lễ, cái chết của Trần Duệ Tông và sự cướp phá của Chiêm Thành, ngày càng suy sụp. Thời hậu kỳ nhà Trần, mọi việc chính sự do thượng hoàng Trần Nghệ Tông quyết định. Trần Nghệ Tông lại rất trọng dụng Hồ Quý Ly nên khi về già thường ủy thác mọi việc cho Quý Ly quyết định. Dần dần binh quyền của Quý Ly ngày một lớn, Nghệ Tông tuổi cao sức yếu cũng không kìm chế nổi.

Năm 1395 Trần Nghệ Tông mất, Hồ Quý Ly được phong làm Phụ chính Thái sư nhiếp chính, tước Trung tuyên Vệ quốc Đại vương, nắm trọn quyền hành trong nước. Sau khi bức vua Trần dời đô từ Thăng Long vào Thanh Hóa và giết hàng loạt quần thần trung thành với nhà Trần, tháng 2 năm Canh Thìn 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi của cháu ngoại là Trần Thiếu Đế, tự lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập nên nhà Hồ và kinh đô đặt tại Đại Lại (Thanh Hóa).

                                                       ___ ooOoo ___

Đại Việt dưới thời Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương

Hồ Bạch Thảo

Quý Ly: Niên hiệu Thánh Nguyên [1400]; Hán Thương: Niên hiệu Thiệu Thành [1401-1402], Khai Đại [1403-1406].

Vào tháng 2, năm Kiến Tân thứ 3 [25/2-25/3/1400] (Minh Huệ Đế, Kiến Văn năm thứ 2); Hồ Quý Ly truất ngôi của cháu ngoại là Trần Thiếu Đế; tự xưng là Hoàng đế, đặt niên hiệu Thánh Nguyên, đổi quốc hiệu là Đại Ngu.

Năm Thánh Nguyên thứ 1 [1400], Vua nhà Hồ đặt chức Liêm phóng sứ ở các lộ với nhiệm vụ thanh tra, dò hỏi quan lại kẻ hay người dở, việc lợi hại trong dân gian, để thi hành việc giáng truất hay cất nhắc. Dùng qui chế này làm thể thức lâu dài; do đó các chức Thái thú, Lệnh doãn bị thay đổi thường xuyên.

Tháng 8 [20/8-17/9/1400], cho thi Thái học sinh. Lưu Thúc Kiệm, Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Hoàng Hiến, Nguyễn Thành, Bùi Ứng Đẩu, tất cả 20 người trúng tuyển. Thúc Kiệm, người huyện Gia Định thuộc Bắc Giang; Nguyễn Trãi người huyện Thường Tín, Hà Tây; Vũ Mộng Nguyên người huyện Đông Sơn, Thanh Hóa; Hoàng Hiến người huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh; Bùi Ứng Đẩu, người huyện Lâm Thao, Vĩnh Phú.

Hồ Hán Thương

Tháng Chạp [16/12/1400-14/1/1401], nhân Chúa Chiêm Thành mất, con là Ba Đích Lại mới lên ngôi; Hồ Quý Ly sai tướng là bọn Trần Tùng, Đỗ Mẫn đem quân đánh, nhưng không thắng, bèn rút quân về:

Chúa Chiêm Thành là La Ngại mất, con là Ba Đích Lại mới lập làm chúa, Quý Ly muốn nhân cơ hội ấy để cầu lợi, mới dùng Đỗ Mãn làm Đô tướng thủy quân, Trần Vấn làm chức phó, Trần Tùng làm Đô tướng bộ quân, Đỗ Nguyên Thác làm chức phó, quản lĩnh mười lăm vạn quân, tiến đến biên cảnh Chiêm Thành. Tùng nghe lời Đinh Đại Trung, dẫn đạo quân bộ đi ven theo chân núi, cách xa với đạo quân thủy, lúc ấy nước lũ đã xô đến, ba ngày tướng sĩ không có lương, phải nướng mai rùa, da thú để ăn, bèn kéo quân về. Quý Ly cho rằng Tùng đi con đường hiểm trở, làm trái mất quân cơ, đáng phải tội chết chém, nhưng vì có công trong lúc ở nơi tiềm để,[1] nên đem công chuẩn tội, miễn cho tội chết, phải đày làm lính.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 11.

Trần Tùng, Trần Vấn, sau đều được đổi sang họ Vua, tức họ Hồ.

Lên ngôi chưa được một năm, Quý Ly truyền ngôi cho con là Hồ Hán Thương, tự xưng là Thái thượng hoàng, cùng giữ chính quyền trong nước. Hán Thương dùng các niên hiệu Thiệu Thành, Khai Đại; lập vợ là Trần Thị làm Hoàng hậu:

Hán Thương là con thứ của Quý Ly và là em Nguyên Trừng. Mẹ Hán Thương, Huy Ninh công chúa, là con gái Trần Minh Tông. Trước kia Quý Ly vẫn có ý muốn lập Hán Thương nối ngôi, nhưng chưa quả quyết, bèn ngụ ý vào cái nghiên đá, ra một câu đối cho Nguyên Trừng đối lại, để dò xét khí khái Nguyên Trừng:

“Thử nhất quyền kỳ thạch, hữu thời vi vân, vi vũ, dĩ nhuận sinh dân”.

[Dịch nghĩa: Viên đá nhỏ bằng nắm tay, có lúc làm mây, làm mưa, để thấm nhuần ơn cho dân].

Nguyên Trừng đối lại: “Giá tam thốn tiểu tùng, tha nhật tác đống, tác lương, dĩ phù xã tắc”.

[Cây thông nhỏ chừng ba tấc, sau này làm cột, làm xà, để phù trì xã tắc).

Quý Ly bèn lập Hán Thương nối ngôi.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 11.

Vế đối của Hồ Nguyên Trừng rõ ý rằng ông ta chỉ muốn làm tôi trung, phò Vua giúp nước. Tuy nhiên xét thời cuộc lúc này, việc Hồ Hán Thương lên ngôi là phương cách gỡ rối chính trị cho cha con họ Hồ. Bấy giờ Hồ Quí Ly dành ngôi nhà Trần bị dân chúng phản đối kịch liệt; phía nhà Minh cũng thường ôm mộng xâm lăng. Trong các con Quý Ly, Hồ Hán Thương dòng dõi phía mẹ thuộc Tôn thất nhà Trần, nên dễ bề ăn nói hơn. Quả vậy, sau khi Hán Thương lên ngôi, bèn sai sứ sang nhà Minh; nói dối là dòng dõi họ Trần đã tuyệt tự, xin lấy danh nghĩa là cháu ngoại, tạm quản lý công việc trong nước.

Nhằm tăng thu nhập kinh tế, Hán Thương qui định phép đánh thuế thuyền buôn. Chia các thuyền buôn làm ba hạng: thượng đẳng, trung đẳng và hạ đẳng. Thượng đẳng mỗi chân chèo phải nộp thuế 5 quan, trung đẳng 4 quan, hạ đẳng 3 quan.

Tháng 2 năm Thiệu Thành thứ nhất [13/2-14/3/1401] (Minh Huệ Đế, Kiến Văn năm thứ 3), Hán Thương cho đổi lịch Hiệp Kỷ thời nhà Trần, thành lịch Thuận Thiên. Vì triều đại Hồ ngắn ngủi, nên lịch Thuận Thiên chỉ dùng đến năm 1407 thì chấm dứt.

Tháng 4 [13/5-11/6/1401], ban lệnh làm sổ hộ, kiểm tra dân số. Trước đó, Hồ Quý Ly bàn mưu với bầy tôi rằng: “Làm thế nào có được trăm vạn quân để đối địch với giặc phương bắc?”. Đồng tri xu mật sứ Hoàng Hối Khanh xin gộp nhân số lại làm thành sổ hộ: từ 2 tuổi trở lên đều ghi vào sổ; người ở kinh kỳ đến trú ngụ các nơi phiên trấn bắt phải về nguyên quán, kê tên vào sổ, không được ẩn lậu. Khi sổ hộ làm xong, kiểm điểm người từ 15 đến 60 tuổi, được gấp bội so với số trước. Từ đấy, tuyển quân lính được thêm nhiều hơn.

Bọn quan lại như Hoàng Hối Khanh, thể theo ý của Hồ Quý Ly, tìm cách hạn chế dùng gia nô:

Lúc ấy, bọn Hoàng Hối Khanh, Nguyễn Hi Chu và Đồng Thức lựa theo ý họ Hồ, nên thường khuyên Hán Thương giết con cháu nhà Trần, giảm bớt số điền nô, để đè nén thế lực họ Trần. Hán Thương mới lập ra phép hạn chế gia nô. Những người được phép dùng gia nô, cứ theo cấp bậc của mình mà dùng nhiều dùng ít khác nhau; số gia nô thừa phải đem sung công. Gia nô đều ghi dấu hiệu vào trán.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 11.

Tại thành Tây Đô tại Thanh Hóa, cho trồng tre gai, bắc cầu cống bao quanh bên ngoài; thành trong xây gạch trên nền đá. Ngoài ra nhắm điều hòa giá lương thực, Hán Thương cho lập kho thường bình tại các lộ, đến mùa giáp hạt bán ra rẻ hơn giá thị trường:

Trước đây, bên ngoài thành tại kinh đô mới, Quý Ly bắt dân Thanh Hóa trồng tre gai làm như cái thành bao la ở ngoài và bắc cầu cống, đặt hàng quán, đào khe cừ, để tiện đi lại. Còn thành Tây Đô thì thân thành đều xây bằng đá, sau lại bị đổ. Nay Hán Thương hạ lệnh cho các lộ nung gạch để sửa đắp lại, xây trên bằng gạch, dưới bằng đá.

Hán Thương đặt kho thường bình, khi thóc rẻ thì đong vào, khi thóc kém thì bán ra theo giá rẻ để giá thóc ổn định; phát tiền giấy cho các lộ, theo giá cả mua thóc chứa vào kho. Tuy nhiên bấy giờ số quan lại ở các lộ, phủ, châu, huyện có thay đổi, nên không làm được đến nơi.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 11

Tháng 10 [6/11-4/12/1401], Hán Thương bổ dụng Nguyễn Phi Khanh làm Hàn lâm viện học sĩ. Phi Khanh là thân phụ Nguyễn Trãi, trước tên là Ứng Long, đỗ Thái học sinh triều nhà Trần, lấy con gái Trần Nguyên Đán. Vua Trần Nghệ Tông lấy cớ là dòng dõi hàn vi mà lại lấy con gái Nguyên Đán, thuộc Tôn thất, nên bỏ không dùng. Đến nay Hán Thương mới cất nhắc bổ dụng và cho đổi tên là Phi Khanh.

Tháng 2, năm Thiệu Thành thứ 2 [4/3-2/4/1402] (Minh Huệ Đế, Kiến Văn năm thứ 4), Hán Thương duyệt quân đội.

Tháng 3 [3/4-1/5/1402], cho đắp sửa đường sá từ thành Tây Đô đến Hóa Châu [Thừa Thiên]. Dọc đường đặt phố xá và trạm chuyển thư, gọi là đường thiên lý.

Tháng 6 [1/7-29/7/1402], bổ dụng Đồng Thức, người đất Chí Linh, Hải Dương, làm Ngự sử trung tán. Đồng Thức đỗ Thái học sinh triều nhà Trần; Hán Thương ví Đồng Thức như Ngụy Trưng, một danh thần thời Đường Thái Tông, nên ban cho họ Ngụy.

Tháng 7 [30/7-28/8/1402], Hồ Hán Thương sai tướng là Đỗ Mãn đánh Chiêm Thành. Chiêm Thành sai Sứ dâng đất xin hàng:

Hán Thương thấy bọn Trần Tùng đi đánh Chiêm Thành không thành công, phải rút về, lại dùng Đỗ Mãn làm đô tướng, Nguyễn Vị và Nguyễn Bằng Cử làm chiêu thảo sứ, đem đại quân sang đánh. Khi đại binh kéo đến biên giới Chiêm Thành, Đinh Đại Trung làm tiên phong, gặp tướng Chiêm Thành là Chế Thất Nan, hai bên giao chiến đều bị chết. Chúa Chiêm Thành là Ba Đích Lại hoảng sợ, sai người cậu là Bố Điền đem dâng các sản vật địa phương và dâng đất Chiêm động [Thăng Bình, Quảng Nam]; để xin cho rút quân. Khi Bố Điền đến nơi, Quý Ly bắt ép thay làm tờ biểu khác dâng cả đất Cổ Lũy [Quảng Ngãi] nữa. Rồi đem hai đất ấy chia làm 4 châu là: Thăng, Hoa, Tư và Nghĩa, đặt chức An phủ sứ lộ Thăng Hoa để trấn trị, còn ở đầu nguồn thì đặt làm trấn Tân Ninh [Thu Bồn, Quảng Nam].” Cương Mục, Chính Biên, quyển 11.

Sau khi chiếm được 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa; nhà Hồ bổ dụng Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa. Ngoài ra còn bổ dụng Chế Ma Nô Đã Nan, con Chế Bồng Nga trước kia chạy sang nước ta, làm Cổ Lũy thượng hầu, để tìm cách chiêu dụ người Chiêm Thành.

Nhà Hồ quy định lại phép đánh thuế tô, tức thuế ruộng đất, thuế dung, tức thuế sưu dịch. Đối với thuế dung, chiếu cố đến người nghèo, quả phụ, được giảm, hoặc miễn thuế:

Trước kia, về triều nhà Trần, tư điền của dân cứ mỗi mẫu thu thóc 3 thăng; đất bãi trồng dâu, mỗi mẫu thu tiền 9 quan hoặc 7 quan. Đinh nam mỗi năm nộp tiền 3 quan. Đến nay Hán Thương thay đổi lại cho thi hành: mỗi mẫu ruộng thu thóc 5 thăng; đất bãi trồng dâu chia ra 3 bậc: bậc cao nhất mẫu thu 5 quan, bậc trung bình mỗi mẫu 4 quan, bậc thấp nhất mỗi mẫu 3 quan. Thuế đinh nam thì căn cứ vào số ruộng để đánh thuế: người nào có ruộng từ 2 mẫu 6 sào trở lên thu tiền 3 quan; người nào ruộng kém số ấy sẽ được giảm bớt dần; người không có ruộng cùng trẻ mồ côi và đàn bà góa mà có ruộng đều được miễn thuế dung.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 11.

Tháng 2 năm Khai Đại thứ nhất [ 21/2-22/3/1403] (Minh Thái Tông Vĩnh Lạc năm thứ nhất), sau khi đặt chức An phủ sứ lộ Thăng Hoa, chia lộ này thành 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩabèn cho dời dân đến Thăng Hoa; nhằm tránh sự lẫn lộn, dân thuộc châu nào, ghi tên châu đó vào cánh tay:

Trước đây, Chiêm Thành dâng đất Chiêm Động và Cổ Lũy, họ dời hết dân đi nơi khác mà bỏ đất không; Quý Ly chia đất ấy làm lộ Thăng Hoa. Đến nay mới đem dân các lộ, người nào không có ruộng mà có của đến đấy để ở. Người mới đến cùng với người cũ của lộ ấy còn sót lại đều biên tên vào quân ngũ, nhưng thích hai chữ tên châu hiện ở vào cánh tay. Năm sau, lại cho vợ con những người đã di đến khi trước đi theo. Những người này, lúc đi đường biển gặp gió bão, bị chết đuối nhiều. Lòng dân rất là náo động.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 12.

Nhà Hồ cho đặt vùng đất Thanh, Nghệ, Tĩnh là Tứ Phụ, với nhiệm vụ yểm trợ cho kinh kỳ Tây Đô:

Cơ sở ở Tây Đô đã xây dựng xong, Hán Thương lại đổi phủ Thanh Đô làm phủ Thiên Xương, phủ Diễn Châu làm phủ Linh Nguyên, hợp với Cửu Chân, Ái Châu gọi là “tứ phụ”, đổi tên núi Đại Lại làm núi Kim Âu.

Lại đặt chức Thị giám[2] ở kinh kỳ, ban phát cân, thước, thưng, đấu; định giá trị tiền giấy để buôn bán được lưu thông. Lúc ấy những người buôn bán phần nhiều chê tiền giấy nát, nên lập điều luật để bắt tội người nào chê bai tiền giấy, làm cao giá hàng hoặc đóng cửa hàng và người nào giúp đỡ bênh vực những việc ấy.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 12.

Nhà Minh sai sứ sang báo tin Vua Thái Tông lên ngôi và đổi niên hiệu. Bấy giờ vua Huệ Đế đóng đô ở Kim Lăng, Yên Vương Lệ làm phản, giết các quan Tam ty, đem quân tiến đánh kinh sư, đi đến đâu thắng được đấy, vào trong thành chém giết bừa bãi. Huệ Đế tự thiêu mà chết. Lệ tự lập làm vua, đổi niên hiệu là Vĩnh Lạc, miếu hiệu là Thái Tông.

Tháng 2 năm Khải Đại thứ 2 [1404] (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 2), Hán Thương định lại phép thi, chia làm 5 kỳ, trong đó có 1 kỳ thi về viết chữ và làm toán:

Hán Thương phỏng theo phép ba kỳ thi ở thời nhà Nguyên, chia làm bốn kỳ, lại thêm một kỳ thi viết chữ và tính, cộng thành năm kỳ thi. Cứ ba năm một lần mở khoa thi, năm nay thi hương, người nào trúng tuyển được miễn dao đài tạp dịch, đến năm sau thi ở bộ Lễ, người nào trúng tuyển được lựa chọn bổ dụng, lại năm sau nữa thi hội, người nào trúng tuyển được sung vào Thái học sinh. Lúc ấy sĩ tử mới do bộ Lễ thi, gồm 170 người được trúng tuyển, chưa kịp thi hội, sau vì việc quân nhà Minh sang xâm lấn, nên thôi không thi nữa.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 12.

Về việc binh, trước đây, xét định quân ngũ, chọn người nào mạnh khoẻ mà nhà nghèo sung vào quân trợ dịch, sau đổi làm quân bồi vệ. Đến nay chia quân ra tả và hữu, dùng tên loài lân, loài phượng để đặt tên hiệu quân, chọn các quan văn võ người cùng họ Hồ để quản lĩnh.

Sai đào Liên Cảng[3]từ Tân Bình [Quảng Bình] đến giáp giới Thuận Hóa, để việc chuyên chở được tiện lợi, nhưng vì bùn cát cứ nổi bềnh lên, nên không thành công, phải bỏ.

Minh Thái Tông gửi sắc văn đàn hạch An Nam chiếm lấn đất đai Chiêm Thành và phủ Tư Minh, Quảng Tây. Nhà Hồ phải vất vả sai sứ qua lại trần tình và tìm cách xoa dịu.

Biết rằng nhà Minh muốn gây việc binh đao, Hồ Hán Thương hạ lệnh đóng thuyền đinh sắt, đặt hiệu thuyền là “tải lương cổ lâu”. Thuyền ấy ở bên trên bắc tre làm đường đi lại, bên dưới hai người chèo một mái chèo, có thể tiện lợi cho việc chiến đấu; tuy mượn tiếng vận tải để đặt tên thuyền, nhưng thực ra là để phòng bị quân nhà Minh.

Tháng 2 năm Khai Đại thứ 3 [1/3-29/3/1405] (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 3), có nạn đói, hạ lệnh cho dân các lộ phải bán thóc. Sai các quan ở lộ, phủ, châu và huyện kiểm tra số thóc của nhà giàu, bảo họ bán cho dân, theo giá hai bên cùng thỏa thuận.

Tháng 6 [27/6-25/7/1405], đặt bốn kho quân khí. Dân đinh người nào có tài nghệ khéo, đều sung vào làm việc công, sửa chữa chế tạo khí giới, để đồ quân dụng được đầy đủ.

Tháng 7 [26/7-24/8/1405], Hán Thương đi tuần du xem xét núi sông ở kinh lộ và các cửa biển; tháng 8 [25/8-22/9/1405], trở về kinh đô. Trước đây, Hán Thương sai đóng cọc gỗ ở nơi xung yếu tại các cửa biển và sông cái để phòng bị chống cự quân giặc; đến nay lại thân đi xem xét việc này, là có ý muốn biết được nơi nào hiểm trở, để lưu ý thêm.

Thời Vua Thái tổ nhà Minh sai người sang nước ta bắt phải nộp sư sãi, người bị hoạn và gái đẹp đấm bóp, Vua Phế Đế nhà Trần đã sai tìm những hạng người ấy đem nộp. Trong số đó có những người bị hoạn như bọn Nguyễn Toán, Nguyễn Tông Đạo, Từ Cá và Ngô Tín. Nay nhà Minh cho rằng bọn Nguyễn Toán am hiểu núi sông nước ta, nên đưa sang để dòm ngó tình hình trong nước.

Tháng 9 [23/9-22/10/1405], Hán Thương định lại quy chế quân ngũ. Nam và bắc chia làm 12 vệ, đông và tây chia làm 8 vệ, mỗi vệ 18 đội, mỗi đội 18 người, đại quân 30 đội, trung quân 20 đội, doanh 15 đội, đoàn 10 đội, cấm vệ đô 5 đội; có đại tướng quân thống lĩnh.

Bấy giờ Hán Thương thường bị nhà Minh tra hỏi, trầm trọng nhất là vụ việc vào ngày 17 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 3 [16/2/1405]; Minh Thái Tông sai Giám sát Ngự sử Lý Kỳ, Hành nhân Vương Khu mang sắc dụ đến điều tra việc Tôn thất Trần Thiêm Bình, trốn sang Trung Quốc, tố cáo cha con Hồ Quý Ly diệt họ Trần. Hán Thương bèn sai Tả ti lang trung Phạm Canh, Thông phán Lưu Quang Đình sang nhà Minh dâng lễ cống và tạ lỗi. Việc này là có ý muốn dập tắt việc chiến tranh có thể xảy ra; nhưng nhà Minh đã giữ Canh ở lại mà cho Quang Đình về.

Để đối phó với tình hình gay go, nhà Hồ cho thực hiện những điều cấp thiết sau đây:

Thứ nhất: Đối phó với quân Minh lăm le xâm lăng, nhà Hồ muốn bắt chước nhà Trần từng mở hội nghị Diên Hồng thời chống Nguyên Mông, nhưng không dám, vì sợ dân không theo. Hồ Quý Ly bèn lấy cớ mình tuổi 70, nên ban ơn cho phụ lão các lộ, những người từ 70 tuổi trở lên, đàn ông được ban tước một tư, tức một bậc, đàn bà được ban cho tiền giấy; phụ lão ở kinh thành được ban tước và được hội họp uống rượu.

Thứ hai: Đắp thành Đa Bang. Nhà Hồ nhận thấy nếu quân nhà Minh kéo sang, thì Đa Bang chính là địa điểm xung yếu nhất, nên sai Hoàng Hối Khanh đắp thành để ngăn giữ. Thành Đa Bang vị trí tại xã Cổ Pháp, huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây; sau đó phân phối các vệ quân ở Đông Đô [Hà Nội] đi đóng cọc ở sông Bạch Hạc để chống giữ cánh quân nhà Minh từ mặt Tuyên Quang tiến xuống.

Thứ ba: Hội họp các quan văn võ trong kinh thành và ngoài các lộ bàn về kế hoạch nên đánh hay nên hòa:

Hán Thương hạ lệnh các viên An phủ sứ ở các lộ về triều để cùng với các quan trong kinh bàn về kế hoạch nên đánh hay nên hòa. Lúc ấy có người khuyên nên đánh, nói: “Không nên để quân Minh kéo vào nước sẽ làm mối lo sau này”. Nguyễn Quân, trấn thủ Bắc Giang, cho rằng hãy nên tạm hòa, chiều theo ý muốn bên địch, để hoãn binh, thì hơn. Tả Tướng quốc là Trừng nói: ‘Tôi không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân có theo hay không theo mà thôi’. Quý Ly đem cái hộp bằng vàng ban cho Trừng.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 12.

Tháng 4 năm Khai Đại thứ 4 [19/4-17/5/1406] (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 4); nhà Minh sai đốc tướng là bọn Hàn Quan và Hoàng Trung đem quân hộ tống Trần Thiêm Bình về nước ta; Hán Thương sai người đón đường giết đi. Sau khi giết Thiêm Bình, liền dùng An phủ sứ  Tam Giang là Trần Cung Túc làm chánh sứ, và Thông phán ở Ái Châu là Mai Tú Phu làm phó sứ, Thiêm phán là Tưởng Tư làm tòng sự, cùng đi sang nhà Minh biện bạch việc gian trá giả mạo của Thiêm Bình, và xin được đi lại cống nạp như cũ. Nhà Minh giữ sứ giả lại, không cho về.

Hán Thương cho rằng quân nhà Minh bị thua một trận, tất nhiên sẽ lại kéo sang, nên hạ lệnh cho người có phẩm tước chiêu mộ những người trốn tránh phiêu lưu làm quân dũng hãn, đặt chức Thiên hộ, Bá hộ để cai quản. Lại sai đóng cọc gỗ ở bờ phía nam sông Nhị Hà nối tiếp nhau suốt hơn bảy trăm dặm; ở các sông và cửa biển đều hạ cây xuống để ngăn cản. Lại hạ lệnh cho dân Bắc Giang và Tam Đái[4] dựng nhà cửa ở nơi đất hoang rậm rạp về bờ phía nam sông Hồng Hà, dự bị làm chỗ di cư trong trường hợp phải rút lui.

Tháng 9 [12/10-10/11/1406], Minh Thái Tông sai đại tướng quân Chu Năng, phó tướng quân là bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh, đem quân sang xâm lăng nước ta. Tháng 12 [9/1-7/2/1407], quân nhà Minh đánh phá thành Đa Bang rồi chiếm lấy Đông Đô; nhà Hồ sụp đổ. Nội dung xin dành trọn phần nghiên cứu chuyên sâu, trong các bài tiếp theo:  “Minh Thái Tông vin vào 6 điều hỏi tội, mượn cớ xâm lăng An Nam”; “Quân Minh chuẩn bị xâm lăng: chỉ huy, lực lượng, lương thực, tiếp tế, tổng quát” và “Quân Minh xâm lăng”.

————–

[1] Thời Tiềm Để: Thời chưa lên ngôi Vua.

[2] Thị giám: Một chức giữ việc trông coi các nơi buôn bán.

[3] Liên Cảng: Nay ở xã Thủy Liên, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

[4] Tam Đái: Thuộc Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.

                                                       ___ ooOoo ___

Đi Tìm Mộ Hồ Qúy Ly

Quốc Việt

Cách nay gần nửa thế kỷ, một thanh niên VN đã qua Trung Quốc, lặn lội lần tìm dấu vết Hồ Quý Ly và hậu duệ.

Cuộc tìm kiếm bất thành, đành làm bài thơ trên khóc tế nhân vật lịch sử này của nước Việt rồi thề rằng: “Người ôm mối hận vong quốc, gửi nắm xương tàn xa đất nước gần 600 năm. Tôi nguyện đời này sẽ cố gắng tìm kiếm được nơi an nghỉ của Người, và dù chỉ còn là nắm đất cũng đưa về quê hương…”. Rồi nay khi tóc râu đã bạc trắng, người đó mới thực hiện được một phần lời thề của mình.

Người đó là nhà khảo cổ và chuyên gia mộ táng Đỗ Đình Truật. Ngay từ thuở nhỏ, ông đã say mê nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly trong những buổi ê a Việt sử dưới mái trường Lê Khiết, Quảng Ngãi. Mặc dù các nhà sử học có nhiều cách nhìn khác nhau về Hồ Quý Ly, thậm chí kết tội phản thần, giết vua, nhưng cậu học sinh Truật khi ấy vẫn cho rằng đó là nhân vật anh hùng. “Một kẻ khác người, có tầm vóc thời cuộc, có công vực dậy, canh tân và bảo vệ đất nước, nhưng tiếc thay vận mệnh ngắn ngủi, để lại mối nghi hoài cho lịch sử…”.

Hình: Mộ Hồ Văn Hải ở núi Lão Hổ Sơn, nơi ông Truật cho rằng đó là hậu duệ của Hồ Quý Ly và được chôn trong khu mộ của dòng họ nhà Hồ

Để tìm hiểu sự thật về Hồ Quý Ly, ông suốt ngày chìm đắm trong lịch sử và dần dần mê sử học lúc nào không biết. Năm 1954 ông ra Bắc, rồi được gửi sang Trung Quốc du học ở thành phố Nam Ninh, Quảng Tây. Cơ hội nghiên cứu lịch sử lại càng đến với ông khi được thọ giáo chính thầy Trần Văn Giáp, trợ lý của Viện Viễn Đông Bác cổ và là người mà chính nhiều trí thức Trung Quốc cũng phải tôn phong là Quách Mạt Nhược thứ hai.

Những ngày nghỉ cuối tuần, thầy Giáp và ông thường lang thang khắp nơi, tìm kiếm dấu vết sinh sống, lưu đày và nơi gửi nắm xương tàn của các nhân vật lịch sử VN. Lúc ấy ở Trung Quốc việc đi lại của các du học sinh VN cực kỳ khó khăn. Nhiều lần ông và thầy phải đi bộ, phải ghé nhà dân bên đường, xin nước uống và chén cơm cầm hơi.

Ở Quảng Tây ông đã phát hiện được di mộ của nhà yêu nước Nguyễn Thiện Thuật và làm thơ khóc tế người: “Đá bia u uẩn tình đất nước. Ái quốc yêu dân buổi đoạn trường. Rừng lau bãi sậy quân một nhóm. Chính nghĩa không mờ với nước non …”. Nhưng dấu vết nhân vật lịch sử mà ông say mê nhất là Hồ Quý Ly thì vẫn mịt mờ.

Sau khi thật sự tin rằng thông tin về Hồ Quý Ly bị bắt cùng bộ tướng ở cửa Kỳ La (Hà Tĩnh), rồi phải chịu lưu đày và chết bệnh ở Quảng Tây là không chính xác, ông lại tiếp tục đi tìm dấu vết ở các địa phương khác. Bước chân ông đã đặt đến rất nhiều nơi, thậm chí cả dinh Lưỡng Quảng tổng đốc Tôn Sĩ Nghị, tư gia tướng giặc Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc, tàng thư cổ của nước Việt ở Côn Minh, Vân Nam nhưng vẫn hoài công. Đến khi lần mò trong Minh sử và Mộc Thạnh cố truyện, Trương Phụ cố truyện (những vị tướng Tàu từng đánh nhau với nhà Hồ)…, le lói được chút dấu vết Hồ Quý Ly thì ông phải về nước. Tâm nguyện không thành, trước khi ra về ông đã thắp nén nhang, làm bài thơ “Anh hùng thất thế trơ thành quách …” khóc tế Hồ Quý Ly và thề sẽ có ngày trở lại…

Năm 1961 ông về VN, tham gia nhóm khảo cổ đầu tiên của miền Bắc, nhưng hễ có thời gian rảnh rỗi là lại mày mò nghiên cứu, tìm kiếm dấu vết nhà Hồ. Không biết bao nhiêu lần ông đã về thành Tây Gia, Thanh Hóa, đứng trước phế tích của thành nhà Hồ mà bồi hồi suy ngẫm thế sự bi hùng của một nhân vật chịu quá nhiều oan khiên trong miệng tiếng người đời.

Chính tại đây ông đã không cầm được nước mắt khi phủi bụi mờ, đọc văn bia của thái tử Trịnh Cán và vua Bảo Đại còn lưu lại trong những chuyến viếng thành. Hai con người này mặc dù vẫn theo chính sử phong kiến cho rằng Hồ Quý Ly là phản thần, nhưng phải thốt lên lời ca ngợi trước những gì nhà Hồ đã làm được. Cũng chính tại đây, ông đã từng bị công an địa phương bắt giải về trụ sở vì “hành vi cứ suốt ngày mò mẫm ở thành cổ”. Đến khi nhận ra danh tính và ý nguyện của nhà khảo cổ, họ đã hết lời xin lỗi và bố trí cả cơm nước cho ông.

Trong các dấu vết còn lưu lại, ông đặc biệt quan tâm đến di chỉ và gia phả của hậu duệ cũng như bộ tướng của Hồ Quý Ly còn lại ở VN. Trong đó có người cháu Hồ Quý Ly là Hồ Quý Công chạy được vào đất Tư Nghĩa, mà bây giờ còn miếu thờ ở huyện Duy Xuyên, Quảng Nam. Riêng ở huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi cũng còn di mộ Đỗ Đình Hầu, một võ tướng nổi tiếng đã từng nhiều lần cùng nhà Hồ chinh phạt quân Lâm Ấp… Ông đã lần mò chắp nối hàng trăm bản đồ cổ từ những chuyến đi sứ hay bị lưu đày của các bậc quan tướng Việt trên đất Trung Quốc và trao đổi thêm thông tin với nhiều nhà sử học uy tín. Dấu vết người xưa dần dần sáng tỏ ở một địa danh núi Lão Hổ Sơn, thôn Kim Lăng, thành phố Nam Kinh, tỉnh Giang Tô.

Năm 2004, ông Truật đã sang tuổi 74 và hiểu rằng mình không còn nhiều thời gian để thực hiện tâm nguyện. Trong lúc đang loay hoay thì ông nhận được sự tài trợ của một cơ quan cho chuyến đi Trung Quốc tìm mộ Hồ Quý Ly của mình. Đêm trước ngày đi ông mừng vui lẫn nôn nao khó tả. Mặc dù đã cả đời nghiên cứu Hồ Quý Ly, nhưng ông vẫn chong đèn lần giở sách cũ, lặng lẽ đọc lại từng lời khen, chê đối với nhân vật lịch sử này. Gió lạnh đêm khuya lùa qua khe cửa thổi tung trang sách.

Trên chuyến bay từ TP.HCM qua Bắc Kinh, ông có cảm giác như mình đang đi ngược lại lịch sử. Cô sinh viên VN tên Thu Vân du học ở Trung Quốc đã tự nguyện làm người hướng dẫn đợi ông ở ngay cổng sân bay. Ngay đêm đó, hai người tiếp tục đi xe lửa từ Bắc Kinh sang Nam Kinh. Chuyến đi mệt mỏi nhưng ông vẫn không thể chợp mắt. Cô gái Việt luôn miệng cứ hỏi chuyện sử Hồ. Tình cờ một hành khách người Trung Quốc ngồi cùng toa xe nghe chuyện, tình nguyện giúp đỡ. Anh nói: “Tôi cũng họ Hồ, nhưng không biết có phải là con cháu nhà Hồ nước Việt mà ông tìm kiếm hay không…”.

Đến Nam Kinh, người này đã đưa ông và Thu Vân đến núi Lão Hổ Sơn. Núi Lão Hổ Sơn là một cụm gồm ba ngọn núi nhỏ cao khoảng 100m với diện tích hơn 80ha nằm bên bờ Nam sông Dương Tử. Trên núi, cây cối rậm rạp bao quanh một bãi nghĩa trang cổ vẫn còn được người nay chôn cất.

Đường lên núi gập ghềnh khó đi. Ông phải nhặt một cây gậy bên đường để leo núi. Suốt cả ngày hôm đó ông vạch cây cỏ, tìm kiếm từng ngôi mộ. Có mộ còn bia ghi tên tuổi, nhiều mộ đã hoang phế vô danh. Đặc biệt, trên núi còn các lô cốt được Nhật xây dựng trong cuộc chiến tranh Trung – Nhật. Những người già địa phương kể rằng nhiều mộ cổ, kể cả lăng mộ và cái miếu rất lớn thờ một “người họ Hồ” đã bị quân Nhật san bằng làm lô cốt. Ngày hôm sau ông trở lại núi, cặm cụi ngồi đọc từng bia mộ còn lại và bất ngờ phát hiện nấm mộ của một người tên Hồ Văn Hải mất cách đây hơn 100 năm nằm dưới tán cây rừng, mà ông tin rằng có thể là hậu duệ của Hồ Quý Ly …

Hình: Hai nắm đất ông Truật mang về từ nơi lưu đày Hồ Quý Ly

Ông mở chiếc túi lúc nào cũng ôm khư khư bên người lấy ra một chai rượu trắng, bánh kẹo, đèn cầy và bó nhang được mang từ VN sang. Lặng lẽ sắp đồ cúng ngay trên đỉnh núi, ông thắp nén nhang khấn vái: “Thuở giang sơn suy vi, giặc cường bạo xâm chiếm, Ngài phát tiết chí khí anh hùng mưu đồ chuyện lớn cho dân tộc. Tiếc thay thời thế chưa thuận, vận hùng ngắn ngủi, Ngài phải chịu cảnh lưu đày, rồi vong thân ở xứ người. Hôm nay, tôi cũng là con cháu tổ tiên Lạc Hồng sang đây thắp cho Ngài nén nhang với vài món quê nhà, khấn báo Tổ quốc đã hoàn toàn độc lập…”. Cúng xong, ông lặng lẽ tưới rượu lên đỉnh núi và cắm hết những nén nhang còn lại ở các nấm mồ vô danh…

Dưới chân núi có cả một làng họ Hồ. Ngay trong đêm đó, ông tìm thẳng đến ngôi làng này. Những người già ở đây đã bật khóc khi nghe ông kể chuyện lưu đày của Hồ Quý Ly gần 600 năm trước. Một số người cho biết ngày xưa ông bà của họ hay lên cúng tế ở ngôi miếu trên đỉnh núi.

Vượt qua hàng ngàn kilômet đến nơi lưu đày Hồ Quý Ly, nhưng không tìm ra được chính xác mộ phần của người, ông Truật đành bồi hồi đào nắm đất trên đỉnh Lão Hổ Sơn, bỏ vào túi nâng niu mang về. Từ đây ông trở nên ít nói, trầm lắng khác thường. Cả đời say mê nghiên cứu nhà Hồ, ông thuộc nằm lòng đến từng chi tiết về nhân vật này. Năm 1407, Hồ Quý Ly cùng gia quyến, các bộ tướng… bị quân Minh bắt và đưa về Nam Kinh.

Tuy nhiên, tại đây hoàng đế nhà Minh đã nhận ra khả năng của họ nên đã trọng dụng. Theo tài liệu của ông Truật, Hồ Quý Ly sau khi trải qua đường lưu đày gian khổ đã chết ở Nam Kinh và được xây lăng mộ trên núi Lão Hổ Sơn. Còn Nguyễn An, Hồ Nguyên Trừng được mời tham gia Bộ công, có công rất lớn trong việc thiết kế, xây dựng thành Bắc Kinh và đúc súng thần công cho nhà Minh. Còn Hồ Hán Thương thì được đế triều vời ra dạy Kinh dịch cho hoàng gia. Một số người trong họ về sau lấy vợ người Trung Quốc và hậu duệ nhà Hồ nước Việt tiếp tục nối dài.

Thắp nén nhang cuối cùng bái lạy Hồ Quý Ly trước khi lên đường về nước, ông nguyện rằng sẽ có ngày trở lại, “tìm chính xác nơi Ngài yên nghỉ và đưa Ngài về cố quốc”.

[Hồ Quý Ly sinh năm 1336, ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, ông có hai người cô lấy vua Trần Minh Tông. Một người sinh ra vua Trần Nghệ Tông, một người sinh ra vua Trần Duệ Tông nên Hồ Quý Ly rất được triều đình tin tưởng và phong nhiều chức tước lớn. Nếu tạm gác lại tranh luận, Hồ Quý Ly được nhường ngôi hay cướp ngôi vua của nhà Trần, thì ông là vị vua có nhiều biện pháp canh tân đầu tiên của đất nước và kiên quyết chống ngoại xâm.

Ngay khi còn làm quan, ông đã nhiều lần cầm quân đi đánh giặc Lâm Ấp, mở rộng bờ cõi phía Nam. Lên ngôi vua, việc đầu tiên ông quan tâm là giữ nước với nhiều biện pháp xây dựng thành trấn (trong đó có thành Tây Gia, Thanh Hóa vẫn còn đến ngày nay), tăng cường quân số và sức mạnh quân đội, đóng chiến tàu hạng nặng, mở xưởng chế tạo thuốc súng, tập trung người giỏi chế tạo khí giới…

Tuy nhiên, công lao lớn nhất của ông được người đời sau đề cao là những biện pháp canh tân kinh tế – xã hội. Ông là vị vua nước Việt đầu tiên cho in và phát hành tiền giấy rộng rãi trong dân chúng, đồng thời nghiêm trị xử chém kẻ làm tiền giả. Ông thực hiện lại chính sách ruộng đất tập trung quá nhiều quan quyền thời Trần, bằng việc ngoài vương tôn, công chúa, không ai được phép có quá 10 mẫu ruộng. Ông cũng ban hành lại chính sách thuế phù hợp, công bằng với người giàu và người nghèo. Đặc biệt ông cho đặt y tỳ, quản tế, giống như các sở y tế ngày nay để chăm lo sức khỏe cho dân. Ngoài ra, việc học hành, thi cử cũng được ông sửa sang lại nhiều. Trong đó lấy toán học đặt ra thêm một trường nữa và đưa môn này vào các kỳ thi.

Trong cuộc chiến với nhà Minh, nhiều quan tướng chủ hòa, nhưng Hồ Quý Ly quyết đánh, bởi ông hiểu rõ ý đồ xâm lược của giặc. Về sau, Nguyễn Trãi đã viết về ông là một bậc đế vương, muốn xây dựng nước Đại Việt hùng mạnh theo ý người, nhưng tiếc thay vận nước chưa đến, thật đáng tiếc và cảm phục. Còn nhà hán học Trần Văn Giáp thì nhận xét thực chất cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi là bước thứ hai chống quân Minh mà vua tôi nhà Hồ chưa làm xong. Đặc biệt, Trần Trọng Kim mặc dù vẫn theo cái nhìn trung thần, phản nghịch của phong kiến nhưng cũng thừa nhận ông không phải là người tầm thường.

Hiện nay, nhiều quan điểm sử học so sánh Hồ Quý Ly và Nguyễn Huệ, nhưng điểm khác biệt của Hồ Quý Ly là không chỉ dũng tướng mà ông còn giỏi về kỹ trị, canh tân đất nước?]

                                                       ___ ooOoo ___

Từ Phan Liêu, Đặng Dung đến Nguyễn Trãi

Nguyễn Xuân Phước 18.04.2005

Tâm sự của một thế hệ trước những biến động của đất nước ở đầu thế kỷ thứ XV.

1.

Tượng vua Trần Nhân Tông

Vào cuối thế kỷ thứ 14 nước Đại Việt bắt đầu một giai đoạn suy vong.

Đầu thế kỷ thứ 13, chỉ 200 năm trưóc đó, đoàn quân bách chiến bách thắng của Thành Cát Tư Hãn và Hốt Tất Liệt đã phải bị khuất phục trưóc những chiến công hiển hách của Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải. Nhưng đến cuối thế kỷ thứ 14 nước Đại Việt bắt đầu một giai đoạn suy vong, nhà Trần đã mất đi năng lực quốc phòng để gìn giữ biên giới. Các vị vua cuối cùng nhà Trần nhu nhược, yếu hèn. Từ những chiến công hiển hách đại thắng quân Nguyên của Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải ở đầu thế kỷ thứ 13, đến giai đoạn nầy, nhà Trần đã mất đi năng lực quốc phòng để gìn giữ biên giới. Nước Chiêm Thành nhỏ bé ở phương nam, dưới sự lãnh đạo của Chế Bồng Nga, đã hơn 10 lần đem quân vượt biên giới phía nam xâm phạm lãnh thổ và ba lần đem quân tàn phá kinh đô Thăng Long.

Trong bối cảnh đó, Hồ Quí Ly xuất hiện như một cái phao cứu vãn nhà Trần. Ông đã giúp triều đình cũng cố lại triều chính và quân đội. Thủy quân Đại Việt đã giết được Chế Bồng Nga, chấm dứt được hoạ xâm lược của Chiêm Thành. Nhưng cái phao cứu sinh Hồ Quí Ly đã trở thành sợi dây thòng lọng lịch sử cho nhà Trần. Với khôn ngoan và mưu lược cùng với quyền lực trong tay, ông đã chấm dứt nhà Trần và mở ra triều đại nhà Hồ.

Hồ Quý Ly là một con người đầy tham vọng, và là một nhà chính trị tài giỏi quyền biến. Nhưng Hồ Quý Ly phải đương đầu với tham vọng to lớn hơn ở phương bắc. Đó là tham vọng của Minh Thành Tổ, một hoàng đế thông minh đảm lược vừa mới cưóp ngôi người cháu ở Kim Lăng, Trung Hoa.

Đầu thế kỷ 15 là thời gian Trung Hoa đã được bình định và bước vào giai đoạn phục hưng. Năm 1398, Minh Thái Tổ băng hà. Ông truyền ngôi lại cho cháu đích tôn, tức là Huệ Đế. Năm 1402, Huệ đế bị chú là Yên Vương Lệ (Chu Di) cứớp ngôi. Yên vương Lệ lên ngôi tức là Minh thành Tổ.

Dưới thời Minh Thành Tổ, ông đã cho tổ chức hạm đội viễn dương với 48 chiếc tàu và 28.000 thủy binh dưói quyền chỉ huy của đô đốc Trịnh Hoà viễn du khắp nơi trên thế giới. Sử cho biết hạm đội Trịnh Hoà (Zheng He) thực hiện 7 chuyến viễn du, đã chinh phục các nuóc Nam Á, qua tận Phi châu, đem về cho Minh Thành Tổ rất nhiều vật lạ quí hiếm và sự thần phục của các vương quốc xa xôi.

Sự kiện nầy nói lên một điều là đối lực của dân quân Đại Việt bấy giờ là Minh Thành Tổ, một triều đại cực thịnh của Trung Hoa.

Minh Thành Tổ muốn mở rộng biên giới về phương nam. Nhân cơ hội một số quan lại nhà Trần chạy qua Kim Lăng dâng sớ tố cáo nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, nhà Minh đã phất ngọn cờ Diệt Hồ Phù Trần, để đem quân sang Đại Việt.

Năm 1406 Minh Thành Tổ phong Chu Năng làm Chinh Di Đại Tướng Quân, Trương Phụ làm Chinh Di Hữu Phó Tướng Quân cùng Mộc Thạnh làm Chinh Di Tả Phó tướng quân thống lĩnh 80 vạn quân chia làm hai cánh tràn xuống nước ta. (ĐVSKTT 307)

Thành nhà Hồ, Thanh Hóa

Thực chất của chiến dịch chinh nam với 800 ngàn quân dưới nhãn hiệu Diệt Hồ Phù Trần của nhà Minh là cuôc chiến tranh xâm lược đi liền với một cuộc di dân vĩ đại. Minh Thành Tổ muốn giải quyết vấn đề biên giới phương nam một lần đủ cả. Cái tàn dư của nòi giống Bách Việt ngoan cố luôn luôn là cái gai và thách đố văn hoá với nòi Hán. Ông muốn bình định Đại Việt để Đại Việt trở thành quận huyện của Trung Hoa như Ngô Việt, Mân Việt trước đây. Do đó, cuộc chinh nam lần nầy không phải chỉ là một cuộc viễn chinh quân sự thuần túy. Minh Thành Tổ đã phát động chiến tranh xâm lược tổng hợp quân sự, văn hoá và huyết thống. Đoàn quân 800,000 người đó có tác dụng pha loãng giòng máu của dân Việt ở phương nam, và làm thay đổi nếp sống và văn hoá Việt để đồng hoá vào Trung Hoa.

Đồng thời, mặt trận tâm lý với khẩu hiệu Diệt Hồ Phù Trần của Minh Thành Tổ đã đánh vào nhược điểm về giá trị chính thống của chính quyền Hồ Quí Ly. Đòn tâm lý nầy gây giao động mạnh mẽ trong quần chúng và chi phối mạnh mẽ ý chí chống xâm lăng của quân dân Đại Việt. Mất tính chính thống, Hồ Quí Ly mất năng lực đạo đức để lãnh đạo công cuộc kháng chiến. Hồ Quí Ly đã thất bại trên mặt trận chiến tranh chính trị trước khi mặt trận quân sự bị sụp đổ.

Sự thất bại của nhà Hồ trong việc lãnh đạo công cuộc chiến đấu chống quân Minh đã đưa Đại Việt vào vòng nô lệ bắc triều lần thứ hai.

2.

Phan Liêu, Đặng Dung và Nguyễn Trãi là ba thanh niên sinh ra lớn lên thời Trần mạt. Ba người đều là dòng dõi của những đại quan làm việc vói triều đình nhà Trần. Khi nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, thân sinh cả ba đều hợp tác với chế độ mới. Họ là những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ thanh niên của đầu thế kỷ 15 phải chứng kiến sự phá sản của triều đại nhà Trần với những di sản lịch sử to lớn.

Nguyễn Trãi, Đặng Dung và Phan Liêu, giống như tuổi trẻ chúng ta ngày hôm nay, đều có tâm sự riêng trước hoàn cảnh bế tắc của dân tộc. Cả ba đều sinh ra và lớn lên cùng thời kỳ. Nguyễn Trãi và Đặng Dung đi tìm con đường cứu nước. Nguyễn Trãi đã thành công và Đặng Dung đã phải tuẩn tiết. Riêng Phan Liêu đã đầu hàng giặc để làm quan.

Phan Liêu là con của quan thái phó Nghệ An Phan Quí Hữu. Nghệ An là cửa ngõ vào Hoá Châu. Lúc ấy lực lượng của Giản Định Đế và Trùng Quang Đế đang nắm giữ vùng Nghệ An Thanh Hoá. Năm 1413, Trương Phụ đem quân đánh Nghệ An. Phan Quí Hữu ra hàng. Phan Liêu được Trương Phụ cho làm tri phủ Nghệ An. Quân của Trùng Quang Đế chạy về Hoá châu. Phan Liêu đem thông tin quân số của Trùng Quang Đế cho Trưong Phụ biết. Nhờ đó, Trương Phụ đã tiêu diệt được lực lượng Nghĩa Quân. Trùng Quang Đế và Đặng Dung đều bị bắt trong trận Hoá Châu nầy và sau đó tự vẫn trên đưòng giải về Kim Lăng. Do sự phản bội của Phan Liêu, chế độ nhà Trần hoàn toàn cáo chung. Đến năm 1419, Phan Liêu bất đồng quan điểm với Mã Kỳ, một tướng lãnh quân Minh, nên đem quân giết quan quân nhà Minh ở Thanh hoá và chạy qua Ai Lao.

Phan Liêu không đầu hàng ở giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh xâm lược. Ông đầu hàng vào năm 1413, tức là 6 năm sau khi Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân tràn vào Đại Việt. Như vậy trong thời gian đó, Phan Quì Hữu đang làm quan cho nhà Hậu Trần, đang làm công tác phù Trần.

Ở giai đoạn nầy động lực cho sự hợp tác với quân Minh không còn là phù Trần nữa. Sau 6 năm chiếm đóng Đại Việt quân Minh không hề quan tâm đến việc đưa con cháu nhà Trần trở lại ngai vàng. Chiến dịch Diệt Hồ Phù Trần đã hiển nhiên trở thành cuộc chiến tranh xâm lược. Ở giai đoạn nầy, hàng quân Minh là sự chọn lựa giữa cái chết vinh vì đất nước và cái sống nhục theo quân xâm lược, là chọn lựa giữa đi với Trùng Quang vào núi kháng chiến và theo giặc Minh làm quan. Phan Liêu chọn con đường thứ hai.

Cuộc nổi loạn của Phan Liêu năm 1419 chắc chắn đã gây giao động mạnh trong hàng ngũ quân Minh. Nhưng vì cuộc nổi loạn không có tầm vóc lớn nên không gây ảnh hưởng rộng rãi và bị tiêu diệt ngay. Sau đó ông đã trốn sang Ai Lao và mất hút vào trong lịch sử.

Ở Phan Liêu chúng ta thấy được tính chất bất định của một con người đã mất định hưóng dân tộc. Ông hành xử bởi cá nhân và vì cá nhân. Ngay cả khi ông nổi loạn chống quân Minh, cái động lực chính là mâu thuẩn quyền lợi và cá tính giữa ông và Mã Kỳ. Do đó, ông không thấy được lực lượng Lam Sơn đang lớn mạnh, đang xoay đổi vận hội của dân tộc.

Đặng Dung là con của quốc công Đặng Tất một đại quan nhà Trần. Cũng như tất cả những quan lại dứoi triều mạt Trần, Đặng Tất đã hợp tác với chính quyền Hồ Quí Ly.

Khi Trương Phụ đem quân xâm chiếm nước ta, Đặng Tất đang làm Đại Tri Châu ở hạt Hoá Châu. Lúc đầu ông theo giặc Minh được Trương Phụ cho tiếp tục giữ chức vụ cũ. Đến khi Giản Định Đế khởi nghĩa thì ông đem thành Nghệ an dâng cho Giản Định, và dâng con gái vào hậu cung. Đặc biệt Hoá Châu là vùng địa đầu ở phía nam của Đại Việt. Địa thế hiểm trở. Năm 1413 Trương Phụ đem quân đánh Hoá Châu. Mộc Thạnh trình với Trương Phụ như sau: “Hoá Châu núi cao bể rộng khó lấy lắm.” (TTK tr. 204) Với truyền thống gia đình và địa phương anh linh như thế, Đặng Dung đã được hun đúc trở thành một võ tướng của nghĩa quân nhà hậu Trần. Trong lúc gian nan chỉ huy cuộc kháng chiến, ông đã để lại cho chúng ta bài thơ Cảm Hoài được sử gia Trần Trọng Kim dịch như sau:

Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay,
Vai khiên trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài vầng nguyệt đã bao rày.

Bài thơ nầy được danh sĩ Lý Tử Tấn, một học giả thời Lê, tác giả Chuyết Am Văn Tập, nhận xét:”không phải người hào kiệt, không thể làm được.” Qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được Đặng Dung không những là một võ quan, một người yêu nước, mà còn là một người nghệ sĩ tài hoa. Cho đến ngày hôm nay, không ai trong chúng ta đọc hai câu cuối của bài Cảm Hoài mà không xúc động trước lòng yêu nước tuyệt vời của ông.

Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài vầng nguyệt đã bao rày.

Sau khi cha ông bị Giản Định Đế Trần Ngỗi giết chết, ông thấy được viễn ảnh đen tối của cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Trần Ngỗi. Con người Trần Ngổi quá thiển cận, cục bộ và thiếu tự tin. Ông ta không thể tiếp tục lãnh đạo công cuộc chống xâm lăng. Đặng Dung thấy nhu cầu của thế hệ mới đứng ra nhận trọng trách của lịch sử. Từ suy nghĩ đó, ông đã cùng người bạn đồng cảnh ngộ là Nguyễn Cảnh Dị đón Trần Quý Khoách, là người cùng trang lứa với ông, để lập làm vua vào năm 1409. Trần Quí Khoách là con Mẫn vương Trần Ngạc. Mẫn vương là con vua Trần Nghệ Tông và là anh của Giản Định Đế. Trùng quang Đế gọi Giản Định Đế bằng chú.

Để tạo sự đoàn kết trong công cuộc kháng chiến Đặng Dung cùng Trần Quý Khoách và những ngưòi bạn đồng chí hướng đã tái phối trí lại lực lượng kháng chiến. Trong tổ chức mới, quyền hành của thế hệ lớn tuổi bị giảm thiểu và những ngừoi trẻ đứng ra nắm binh quyền. Giản Định Đế đưọc bố trí làm thái thựơng hoàng, một vị trí uy tín nhưng không có thực quyền.

Đặng Dung cố gằng tạo sinh khí mới cho công cuộc kháng chiến bằng cách tạo điều kiện cho thế hệ trẻ đứng ra nắm chủ động việc lãnh đạo cuộc kháng chiến. Nhưng sinh lực nhà Trần đã hết. Sau một vài chiến thằng nhỏ, quân kháng chiến đã phạm một số sơ suất chiến lược làm mất cơ hội bắt sống Trương Phụ. Từ đó, lực lượng kháng chiến yếu dần. Đồng thời quân Minh gia tăng hành quân và Giản Định Đế bị bắt đưa về Kim lăng. Sau trận chiến ở Hoá Châu, năm 1413 Đặng Dung và Trùng Quang Đế cũng bi bắt. Đến đây nhà Trần hoàn toàn cáo chung.

Trên đường bị giải về Kim Lăng vua tôi đã trầm mình tự vận. So với việc Giản Định Đế chiụ nhục về Kim Lăng, hành động đi tìm cái chết của Trùng Quang, Đặng Dung cũng như các tướng Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy cho chúng ta thấy được dũng khí của một thế hệ trẻ yêu nước, rất lãng mạn, rất hào hùng, nhưng vô cùng bất hạnh.

Cuộc đời của Đặng Dung là tượng trưng cho lòng yêu nước trung trinh, để nợ nước lên trên thù nhà. Ông mang tâm sư “Vai mang trái đất mong phò chúa” đến hơi thở cuối cùng. Tận trung với vua, với nhà Trần cho đến tận cùng cái vận hạn của triều đại ấy.

Khi bàn đến cái thất bại của nhà Hậu Trần, Sử thần Ngô Sĩ Liên viết:

“Trận đánh ở Sái Già, Đặng Dung, Nguyễn Súy, đem tàn quân trơ trọi chống lại bọn giặc mạnh, quân tướng đều tinh nhuệ. Dung nửa đêm đánh úp doanh trại giặc làm cho tướng giặc sợ hãi chạy trốn, đốt hết thuyền bè, khí giới của chúng, không phải người thực sự có tài làm tướng, thì có làm được như thế hay không?.


Thế nhưng cuối cùng vẫn bại vong, đó là do trời. Tuy thất bại, cũng vẫn vinh quang, vì sao vậy?. Bọn Dung vì nghĩa không thể cùng sống với giặc, phải tiêu diệt bọn chúng mới nghe, cho nên mới hết lòng, hết sức giúp đỡ Trùng Quang để mưu khôi phục. Trong khoảng 5 năm, kiên trì chiến đấu với giặc, dẫu có bất lợi, nhưng ý chí không núng, khí thế càng hăng, đến kiệt sức mơí chịu thôi. Lòng trung vì nước của người bề tôi, dẫu trăm đời sau vẫn còn tưởng thấy được!”

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết về nhận định của Lê Lợi về phong trào kháng chiến của Giản Định Đế và Trùng Quang Đế như sau:

“Trước đó, bọn Đặng Tất, Nguyễn Súy ở Châu Hóa cùng lập con cháu nhà Trần là Trần Ngỗi, Trần Khoáng làm vua. Nhưng vua [tức Lê Lợi] thấy họ yếu hèn, lại say đắm tửu sắc, biết là chẳng làm nên chuyện, mới ẩn náu chốn núi rừng, dụng tâm nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu tập dân chúng lưu ly, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn lớn.” (ĐVSKTT tr. 325)

Nguyễn Trãi là con của Nguyễn Ứng Long tự là Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, là con thứ ba của Đại Tư Đồ Trần Nguyên Đán. Ông Nguyễn Phi Khanh là một học sinh nhà nghèo học giỏi. Sử sách kể rằng quan tư đồ Trần Nguyên Đán thấy Ứng Long học giỏi nên yêu mến mời làm thầy dạy cô con gái. Hai thầy trò yêu nhau bà Thái có thai ngoài vòng lễ giáo. Ứng Long bỏ trốn. Quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán cho người đi kiếm về để gã cô con gái đang mang thai cho Nguyễn Ứng Long. Lúc đó ông mới 19 tuổi. Khi lấy bà Thái xong, Nguyễn Ứng Long học tiếp thi Thái học sinh và đâu bảng nhãn. Tức là đậu thứ nhì trong kỳ thi tiến sĩ. Bà Thái là người đàn bà đã được đọc sách thánh hiền từ thuở nhỏ. Cha bà là Trần Nguyên Đán là một thần đồng, đậu tiến sĩ năm 14 tuổi và là dòng dõi Thượng tướng Trần Quang Khải, con thứ của vua Trần Thái Tông. (DVSKTT 277)

Mang trong mình truyền thống thông minh xuất chúng Nguyễn Trãi đậu tiến sĩ năm 21 tuổi dưói triều Hồ Hán Thưong. Ông làm đến chức ngự sử đài chính chưởng cho đến khi nhà Minh xâm lược nước ta.

Năm 1407, Nguyễn Phi Khanh và hai em của ông bị bắt sang Trung Hoa. Khi chia tay ở Ải Nam Quan, Nguyễn Phi Khanh dặn dò Nguyễn Trãi phải về lại Thăng Long để lo việc báo thù cho cha. Lúc đó Nguyễn Trãi 27 tuổi. Trở về Thăng Long, Nguyễn Trãi nhìn đất nước tan hoang, lòng người ly tán không khỏi cảm thấy đau thương. Trương Phụ, Mộc Thạnh và 800 ngàn quân Minh đã vào Thăng Long và đóng binh khắp miền đất nước. Một số lớn nhân sự của triều đình Hồ Quý Ly bị bắt về Kim Lăng. Người hàng giặc. Kẻ đi kháng chiến. Về phương diên gia tộc, Trần Thúc Dao, con trai của Trân Nguyên Đán, và là cậu ruột của Nguyễn Trãi, đã hàng quân Minh và được Trương Phụ cho giữ đất Diễn Châu. Sau nầy Thúc Dao bị Giản Định Đế giết chết. (DVSKTT tr. 313)

Từ khi Nguyễn Trãi chia tay với cha ở Ải Nam Quan năm 1407 đến khi ông tìm đến Lê Lợi năm 1416 là 10 năm. Đó là giai đoạn trong cuộc đời của Nguyễn Trãi không được lịch sử nói gì đến nhiều. Đó là 10 năm mà người sau nghĩ rằng Nguyễn Trãi đã nằm yên, không vọng động.

Có lẽ trong giai đoạn đó ông cũng biết công việc khởi nghĩa của Đặng Dung. Có lẽ ông đã nghe bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung lưu truyền trong đám sĩ phu yêu nước. Chắc Nguyễn Trãi cũng biết câu chuyện về khí tiết của Nguyễn Biểu khi ông mắng Trương Phụ và bị nhục hình đến chết. Nếu ông là ngưòi yêu nước tại sao ông không chia xẻ quan điểm chính trị với Đặng Dung để phù Trần diệt Minh? Tại sao ông, là con cháu của nhà Trần, không gia nhập phong trào kháng chiến của Giản định đế và Trùng Quang Đế để khôi phục nhà Trần, để giành lại độc lập cho tổ quốc?

Liệu thái độ im lặng của ông có bị người đương thời “chụp mũ” là thiếu tinh thần … “phù Trần” chăng?

Người đương thời nghĩ gì khi Nguyễn Trãi cùng với người anh em con cô con cậu là Trần Nguyên Hãn tìm đến người nông dân Lê Lợi ở Lam Sơn năm 1416?

Lê Lợi sinh năm 1385 nhỏ hơn Nguyễn Trãi 5 tuổi. Ông gặp Lê Lợi năm ông 36 tuổi và Lê Lợi 31 tuổi. Phải chăng ông chọn Lê Lợi vì Lê Lợi là hình ảnh của một thế hệ mới. Nhưng nếu chọn thế hệ mới tại sao ông không chọn Trùng Quang Đế Trần Quí Khoách làm minh chủ để cùng với Đặng Dung Phù Trần Diệt Minh?

Về quan điểm thế hệ, Nguyễn Trãi rất gần với Đặng Dung. Cả hai đều quan niệm rằng cuộc chiến mới phải do thế hệ trẻ lãnh đạo. Thế hệ cũ, đại biểu là Giản Định Đế Trần Ngổi, không có đủ năng lực để lãnh đạo cuộc chiến chống nhà Minh. Giản Định Đế vừa lên ngôi trong hoàn cảnh kháng chiến khó khăn đã lo tuyển thê thiếp vào hậu cung. Chiến thắng Bô Cô chưa ráo máu giặc, Giản Định đã nghe lời hoạn quan trong triều đình giết hai danh tướng có công đầu là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Những sự kiện nầy cho thấy Trần Ngỗi là con người, như Lê Lợi nhận định, ham mê dục vọng. Tệ hơn nữa, ông ta là người lãnh đạo nhưng thiển cận, nghi kỵ và thiếu tự tin. Và do đó, Giản Định Đế không có khả năng tập hợp và nuôi giữ nhân tài để lãnh đạo công cuộc kháng chiến.

Đặng Dung tìm đến ngừơi hậu duệ trẻ tuổi của nhà Trần là Trần Quí Khoách để tôn lên làm vua. Còn Nguyễn Trãi tìm đến Lê Lợi, một hào trưởng vô danh ở Thanh Hoá, để tôn lên làm minh chủ.

Nhưng sự việc quan trọng hơn là Nguyễn Trãi tìm đến Lê Lợi để dâng Bình Ngô Sách. 10 năm từ khi chia tay với cha ở Ải Nam Quan, Nguyễn Trãi đã dành thời giờ suy nghĩ về một chiến lược mới để cứu nước. Bình Ngô Sách là kết tinh của những suy nghĩ của Nguyễn Trãi.

Ngày nay Bình Ngô Sách đã thất lạc. Nhưng qua tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo chúng ta có thể thấy ngay đuợc sách lược của cuộc kháng chiên của Lê Lợì.

Sách lược chính yếu của Bình Ngô Sách là Mưu Phạt và Tâm Công. Đánh bằng mưu và đánh vào lòng người. Đó là ý nghĩa của cuộc chiến tranh nhân nghĩa. Ông xây dựng quan điểm đúng đắn về chiến tranh chính nghĩa để đương đầu lại với cuộc chiến tranh giả nhân nghĩa dưới khẩu hiệu diệt Hồ phù Trần bịp bợm của Minh Thành Tổ. Ông dùng chiến tranh tâm lý chính đạo để đối phó chiến tranh tâm lý tà đạo của quân xâm lược.

Ngay ở đề tựa Bình Ngô Sách, ông đã gọi Trung Hoa là giặc Ngô. Đây là cách dùng chữ để nhấn mạnh rằng rằng thái độ ngạo mạn của Trung Hoa gọi nguời Việt là Di, là mọi rợ, (như khi Minh đế phong Chu Năng làm “Chinh Di” Đại Tưóng Quân), là một điều xúc phạm đến truyền thống văn hoá lâu đời của Đại Việt. Ông muốn nhắc lại cho mọi ngưòi biết rằng chính Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương khi cn là giặc cỏ cũng tự phong là Ngô Vương. Xuất xứ của Chu Nguyên Chương là từ Ngô Việt, một bộ phận của Bách Việt đã bị đồng hoá vào Trung Hoa. Ông gọi cuộc chiến nầy là cuộc chiến “bình Ngô” để trả lại Minh Thành Tổ chữ “chinh Di” mà ông dùng để gọi Đại Việt. “Bình Ngô” cũng xác định cuộc chiến nầy là một cuộc chiến văn hoá, để đối đầu với chiến dịch “chinh Di” của Minh Thành Tổ nhằm đồng hoá Đại Việt. Chính vì thế trong phần mở đầu của Bình Ngô Đại Cáo Nguyễn Trãi khẳng định giá trị truyền thống lâu đời của văn hoá phương nam:

“Như nưóc Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu,

Sơn hà cương vực đã chia, Phong tục bắc nam cũng khác”.

Đồng thời, ông bổ xung ý niệm nhân nghĩa mông lung của Nho Giáo bằng cách đưa ý niệm nầy vào thực tế chính trị. Theo ông, đối tượng của chính trị là nhân dân, không phải là huyết thống hay dòng họ. Vai trò của nhà cầm quyền phải làm sao cho nhân dân sống an cư lạc nghiệp. Do đó, nhân nghĩa không nằm ở khẩu hiệu, ở tuyên truyền. Nó nằm ở chổ khi thực hiện cái mà ngưòi ta gọi là điều nhân nghĩa đó, có làm cho nhân dân đưọc hạnh phúc ấm no hay không. Ông đưa ra tiêu chuẩn bắt buộc những người lãnh đạo ưa nói điều nhân nghĩa phải chứng minh đưọc khả năng đem lại cơm no áo ấm cho nguời dân cách cụ thể. Cái cụ thể đó ngày nay đưọc gọi là lợi tức bình quân đâu ngưòi và những chỉ số phát triển kinh tế quốc gia.

Và nữa, nếu phải phát động một cuộc chiến tranh nhân nghĩa thì mục đích của nó là để triệt tiêu bạo quyền, chứ không phải để xây dựng một chế độ cường bạo hơn, độc ác hơn. Khi một chế độ mới độc ác hơn đưọc thiết lập để thay thế chế độ cũ, lập tức, mọi khẩu hiệu nhân nghĩa trong cuộc chiến đều mất giá trị. Và cuộc chiến đó trở nên mất chính nghĩa.

Do đó, nhân danh “phù Trần” hay bất cứ một lý tuởng vĩ đại nào để thay đổi văn hoá dân tộc, để ngăn sông cấm chợ, để bóc bột nhân dân, làm đời sống nhân dân bất ổn định, làm cho nhân dân cùng khổ một điều bất nghĩa, là một tội ác. Ông gói ghém quan điểm nầy trong câu mở đầu của Bình Ngô Đại Cáo:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt chỉ vì khử bạo.

Suốt hai trăm năm trước đó, Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư và Binh Thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo được coi như sách lược quốc phòng của Đại Việt và của triều đại nhà Trần. Hai bộ sách nầy biểu tượng của đỉnh cao về tư duy quốc phòng giúp nhân dân Đại Việt chiến thắng giặc Nguyên Mông ở thế kỷ 13. Nhưng đến đầu thế kỷ thứ 15, sách lược quốc phòng của Trần Hưng Đạo không giúp nhà Trần gìn giữ ngai vàng và bảo vệ đất nước.

Có lẽ Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư và Binh thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo không còn đủ “linh nghiệm” để cứu nước và cứu nhà Trần. Hậu duệ của Trần Quang Khải, Trần Hưng Đạo không còn hùng khí của cha ông để giữ Thăng Long trước những đợt tấn công của Chế bồng Nga.

Không phải đến đời Hồ Quí Ly nhà Trần mới mất ngôi. Trước Hồ Quí Ly, nhà Trần đã một lần mất ngôi khi Trần Dụ Tông nhường ngôi lại cho Dương Nhật Lễ (1369-1370). Nếu Trần Nghệ Tông không diệt được Dương Nhật Lễ để giành lại ngôi thì nhà Trần đã cáo chung từ năm 1369. Nhưng Trần Nghệ Tông là một vị vua nhu nhược, yếu hèn. Ông lên ngôi để kéo dài giai đoạn hấp hối của nhà Trần. Chính Trần Nghệ Tông đã mở đường cho Hồ Quí Lý cướp ngôi nhà Trần sau nầy.

Trong mười năm yên lặng, Nguyễn Trãi đã nghiền ngẫm sách lược của tổ phụ và suy nghĩ đến vận nước và vận hạn của nhà Trần. Khi viết Bình Ngô Sách, ông đã quyết định bước ra khỏi bóng che vĩ đại của Trần Hưng Đạo. Bình Ngô Sách, do đó, là một đỉnh cao mới trong lịch sử quốc phòng của dân tộc để tiếp nối đỉnh cao của Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư và Binh Thư Yếu Lược.

Nhưng tại sao Nguyễn Trãi không dâng Bình Ngô Sách cho Trùng Quang Đế mà phải tìm đến con người vô danh Lê Lợi ở núi Lam Sơn?

Có lẽ Nguyễn Trãi thấy được nhà Trần đã suy vong. Nói theo ngôn ngữ của dân gian thì vận số của nhà Trần đã hết. Phù Trần không còn là lý tưởng và là khẩu hiệu có thể giải quyết vấn đề đất nước. Phù Trần có thể là cứu nước. Nhưng cứu nước không hẳn đồng nghĩa với phù Trần.

Quan điểm về triều đại và dân tộc của Nguyễn Trãi đã bác bỏ quan điểm phù Trần của Đặng Dung. Trong khi Đặng Dung trung trinh với nhà Trần dù cho cha ông bị Giản Định Đế giết chết. Trưóc cái thảm hoạ xảy ra cho gia đình, ông không oán hận triều đình . Ngược lại, ông vẫn quyết tâm theo đuổi con đường cần vương phục quốc mà ông đã chọn lựa. Đặng Dung tìm cho được Trùng Quang Đế để phò lên ngôi, để tiếp tục công việc cứu nước. Lòng yêu nước và trung quân của Đặng Dung sáng chói.

Nhưng Đặng Dung gắn liền dân tộc với triều đại, với những con ngưòi biểu tượng của quyền lực đã một thời rất vĩ đại, rất vinh quang, nhưng đã phá sản. Đặng Dung không sai lầm. Nhưng Đặng Dung chưa tìm được, chưa thấy được cái mới, cái xuất lộ cho dân tộc.

Nguyễn Trãi khác hẳn. Mặc dù Nguyễn Trãi là hậu duệ của nhà Trần, nhưng với ông, khẩu hiệu “yêu nước là yêu nhà Trần” không còn đúng nữa.

Quan điểm nầy cũng phù hợp với quan điểm của Nguyễn Phi Khanh. Là rễ của quan đại tư đồ Trần Nguyên Đán, nhưng Phi Khanh bị phạt không được làm quan vì tội “trèo cao”, vì ông là con thường dân nhà nghèo mà dám lấy con gái quan đại tư đồ. Do đó, khi Hồ Quí Ly cướp ngôi, Nguyễn Phi Khanh nhanh chóng ra phục vụ nhà Hồ. Ông chia tay với triều đình bên vợ không luyến tiếc.

Chính Nguyễn Trãi cũng có thiện cảm với nhà Hồ. Trong Bình Ngô Đại Cáo ông viết “vừa rôi nhà Hồ chính trị phiền hà”. Dùng chữ “chính trị phiền hà” để nói đến việc Hồ Quí Ly giết vua soán ngôi, Nguyễn Trãi đã coi việc việc nhà Trần mất ngôi không phải là chuyện to lớn.

Nguyễn Trãi đã giải quyết được một tâm lý cực kỳ quan trọng của một thanh niên trước cái bế tắc của đất nước. Đó là phải cắt dứt cho được cái não trạng trung quân, cần vương trong công cuộc cứu nước tồn chủng. Ông đã bước ra khỏi tâm thức chính trị trung quân của thời kỳ phong kiến để nhìn về phía tương lai của dân tộc. Một triều đại đã chết không thể làm cho nó sống dậy, và càng không thể coi nó là cứu cánh của cuộc kháng chiến. Nguyễn Trãi coi sự sống còn của dân tộc quan trọng hơn là tồn vong của một triều đại. Ông tách dân tộc ra khỏi chế độ. Ông phủ nhận quan niệm “yêu nước là yêu nhà Trần”. Chính điều nầy đã đánh dấu sự trưởng thành về ý thức dân tộc.

Từ những suy nghĩ trên, Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn, lả hai hậu duệ chính thống của nhà Trần, đi tìm con đường mới. Đó là đường vào Lam Sơn. Vì chỉ có Lam Sơn mới có thể trở thành trung tâm vận động lịch sử. Và chỉ có Lam Sơn mới làm cho đất nước hồi sinh.

3.

Phan Liêu, Đặng Dung và Nguyễn Trãi trở thành hình ảnh biểu tượng của ba thành phần thanh niên ở đầu thế kỷ thứ 15

Phan Liêu là đại biểu cho thành phần chọn cho mình chổ đứng trong hàng ngũ quân xâm lăng.

Thành phần nầy có những xu hướng khác nhau. Có những người nhẹ dạ tin tưởng vào khẩu hiểu Diệt Hồ Phù Trần của giặc nên ra hợp tác với giặc Minh. Xu hướng nầy đại biểu cho lòng trung quân, cần vương thiển cận, cục bộ. Họ muốn trả thù cho chúa nhưng quên cái thảm hoạ mất nước. Họ sẳn sàng rước về cho dân tộc một thảm hoạ nguy hiểm hơn cái thảm hoạ thay đổi chính trị, thay đổi triều chính.

Xu hướng khác là những người thấy cái tuyệt vọng trong việc giành độc lập nên đành đứng vào hàng ngũ giặc để tìm đường sống cho cá nhân và gia đình.

Tất cả những xu hướng nầy đều đứng về phía giặc làm công cụ và tay sai. Họ đã góp tay với giặc tiêu diệt sức sống văn hoá dân tộc và mọi sức đề kháng chống xâm lăng để bảo toàn lãnh thổ.

Những người nầy có những lúc cũng phản tỉnh, nổi loạn. Những ngưòi phản tỉnh quyết liệt như Đặng Tất đã hy sinh tất cả để theo kháng chiến. Những ngưòi phản tỉnh nửa vời, như Phan Liêu, cũng nổi loạn rồi mất định hướng. Và dĩ nhiên còn lại những ngưòi như Lương Nhữ Hốt theo giặc đến ngày giặc cuốn gói về nước.

Nhưng lịch sử cũng còn những Đặng Dung và Nguyễn Trãi.

Ngày nay chúng ta không thể không rung động trước bài thơ Cảm Hoài của Đặng Dung. Hình ảnh của một người tráng sĩ mài gươm dưới ánh trăng mong phục thù cho chúa là hình đẹp nhất trong lịch sử giành độc lập của dân tộc. Đó là cái đẹp của lòng yêu nước chất chứa nỗi u hoài, tuyệt vọng. Hình ảnh đó của Đặng Dung đã khơi dậy phong trào yêu nước lãng mạn, kích động được lòng yêu nước nồng nàn của hàng bao thế hệ cho đến ngày nay. Chính những hy sinh đó đã kết thành hồn sử linh thiêng của dân tộc và làm cho ý thức dân tộc lớn lao lên.

Nguyễn Trãi bước một bước xa hơn. Ông gắn bó cái lãng mạn của lòng yêu nước với tinh thần yêu nước thực dụng.

Yêu nước mù quáng sẽ dễ dàng trở thành tay sai cho những chiêu bài nhân nghĩa giả dối bịp bợm của ngoại bang. Lòng yêu nước loại đó có tác hại biến người yêu nước thành tay sai mà họ tưởng mình làm cách mạng dân tộc. Họ quay mặt lại với tổ quốc, với nhân dân, tiêu diệt văn hoá dân tộc mà lương tâm không bị cắn rứt.

Yêu nước lãng mạn mà thiếu tinh thần thực tế như Đặng Dung cũng không đủ liều lượng để giải quyết vấn đề đất nước.

Nguyễn Trãi quân bình giữa tình cảm yêu nước và lý trí. Ông là người biết được thời và thế. Trong những bức thư dụ hàng Vương Thông, Nguyễn Trãi đem chữ thời trong Kinh Dịch để thuyết phục. Ông viết: “tôi từng xem Kinh Dịch 384 hào, mà cốt yếu là chữ thời.”

Chữ thời cũng chính là xu thế lịch sử. Thuận xu thế lịch sử là thuận với chữ thời. Phản xu thế lịch sử là nghịch lại với chữ thời.

Khi thấy vận hạn nhà Trần đã chấm dứt, ông can đảm chia tay với quá khứ, chia tay với triều đại Lý Trần. Ông bước ra khỏi bóng che lớn của Trần Hưng Đạo để tìm đến Lê Lợi. Ông nối kết những người yêu nước mới, không nặng nợ với quá khứ, để mở ra vận hội mới cho dân tộc.

Ông quyết liệt phủ nhận và lật mặt nạ chiêu bài giả dối Diệt Hồ Phù Trần của nhà Minh. Nhưng ông cũng không dứng trên lập trường Diệt Minh Phù Trần để phò một triều đình đã bị phá sản.

Nguyễn Trãi phóng tầm nhìn vào tương lai để xác định lập trường của ông. Ông đứng trên lập trưòng của một nước Đại Việt mới, một nước Đại Việt sắp ra đời và sẽ phải ra đời.

Sách Tang Thương Ngũ Lục kể rằng Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đến tìm Lê Lợi hai lần. Lần đầu gặp ngày giổ, Nguyễn Trãi thấy Lê Lợi vừa cắt thịt vừa ăn, ông thất vọng trở về. Lần thứ nhì ông thấy Lê Lợi thức khuya nghiền ngẫm binh thư ông mới vào ra mắt.

Có lẽ lần đầu Nguyễn Trãi thấy đưọc con người thật rất tầm thường của Lê Lợi, một hào trưởng đã lột bỏ hết tất cả những hào quang và huyền thoại. Khi Nguyễn Trãi gặp Lê Lợi lần thứ hai, ông thấy Lê Lợi là con người của binh thư, của đất nước. Ông thấy được Lê Lợi là con người có ý chí, biết học hỏi cầu tiến và biết tự rèn luyện bản thân. Ông đem con mắt của một nhà khoa bảng yêu nước ở Thăng Long để đánh giá một hào trưởng miền núi trong công tác cứu nước. Ông nhìn được Lê Lợi xuyên qua cái bề ngoài quê mùa thô lỗ của một nông dân. Ông thấy được những đức tính và khả năng lãnh đạo trong con người của Lê Lợi. Những yếu tố nầy làm cho Lê Lợi nổi bật lên gìữa gần 30 phong trào kháng Minh thời bấy giờ.

Về sau có người trách Nguyễn Trãi không có con mắt nhìn xa để sau nầy bị hại đến bản thân và gia đình. Nhưng ở đây Nguyễn Trãi đi tìm con đường và con người cứu nước, chứ không phải đi tìm danh phận cho mình và dòng họ. Do đó, dù ông có tiên liệu được phận bạc của mình với nhà Lê, vì công cuộc cứu nước, ông vẫn dấn thân vào Lam Sơn. Đây là cái vĩ đại của con người Nguyễn Trãi.

Năm 1416, Nguyễn Trãi đã cùng 18 vị anh hùng Lam Sơn cùng nhau kết ước ăn thề ở Hội Thề Lũng Nhai. Ý niệm hôi thề là một sáng kiến cách mạng về mô hình tổ chức chính trị. Ý nghĩa của hội thề là sự ràng buộc những người làm việc nước bằng qui ước đạo đức để giảm thiểu tính chuyên chế, tham sân si, thủ cựu và đồng thời tăng cường tính lý tưởng, tính khai phóng và rộng lượng của người lãnh đạo kháng chiến, và người lãnh đạo đất nước trong tương lai. Nó là xã ước thành văn đầu tiên của Đại Việt trong thời kỳ phong kiến. Nó nối kết cuộc vận động thời đại với linh thiêng của dân tộc. Nó thiết lập giá trị đạo đức cho công cuộc cứu nước. Hội Thề Lũng Nhai, do đó, là một mô hình tập hợp dân tộc tân kỳ.

Biến cố Lũng Nhai, cũng như quan điểm về triều đại của Nguyễn Trãi như đã nói trên, một lần nữa xác định sự trưởng thành về ý thức dân tộc của thế hệ mới. Nhiệm vụ cứu quốc tồn chủng không còn là độc quyền của một dòng họ, của triều đình, của giai cấp quí tộc, mà là của mọi người, từ kẻ khoa bảng đến nông dân vô danh.

Nhờ đó, Hội Thề Lũng Nhai đã xác định được giá trị chính thống lịch sử của phong trào kháng chiến Lam Sơn, tái tạo được đạo đức của tầng lớp lãnh đạo, xây dựng lại nội lực dân tộc, để hình thành một triều đại mới và một nước Đại Việt mới.

Từ Hội Thề Lũng Nhai, Lam Sơn đã trở thành căn cứ địa hồi sinh dân tộc. Xuất phát điểm lịch sử ấy đã đẩy cuộc khởi nghĩa Lê Lợi đến thành công, đã giúp Lê Lợi giành được độc lập cho tổ quốc, khai sáng triều đại nhà Lê, hoàn thành được sứ mệnh cứu quốc tồn chủng của tiền nhân, và mở ra một thời đại phục hưng mới và lớn lao cho Đại Việt.

4.

Đã gần một ngàn năm từ khi Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long để củng cố nền tự chủ sau một ngàn năm bắc thuộc và mở ra thời đại phục hưng lần thứ nhất . Từ đó, lịch sử dân tộc ta đã trãi qua bao triều hưng phế.

Từ Triệu Đinh Lý Trần xây nền độc lập
Cùng Hán ĐưòngTống Nguyên hùng cứ một phương
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt thời nào cũng có

Ở mỗi thời kỳ suy vong, trong xã hội cũ đã chứa đựng cái mầm sống của thời đại mới. Cái mầm sống đó là giấc mơ về một tổ quốc sẽ được hồi sinh và sự trông ngóng vào một xã hội mới tươi đẹp hơn, nhân bản hơn, khai phóng hơn. Cái lực của mầm sống đó là công cuộc tập hợp dân tộc, tập hợp những hào kiệt của thời đại. Cái định hướng để cho cái mới phải ra đời là tư tưởng chỉ đạo của thời đại. Cuộc vận động cứu nước đòi hỏi người làm lịch sử phải thấy được mầm sống của dân tộc trong mỗi một giai đoạn bế tắc.

Công việc khơi dòng lịch sử của thế hệ là thực hiện cho được một cuộc tập hợp dân tộc mới. Đó là công tác quy tụ, gầy dựng và vun trồng mầm sống ấy.

Nhưng tập hợp chưa đủ. Công tác lịch sử đòi hỏi ngươì lãnh đạo phải có một viễn kiến, một tầm nhìn lớn về con đường phục hưng dân tộc và công tác kiến thiết đất nước. Đó là nền tảng tư duy thời đại. Nền tảng tư duy giúp người lãnh đạo phát hiện được xu thế lịch sử của dân tộc và thế giới để làm định hướng cho mầm sống dân tộc được bật ra và phát triển.

Khi mầm sống ấy đến ngày thành thục nó sẽ bộc phát thành giòng thác thời đại, thành một bùng nổ lịch sử, nó sẽ làm vỡ những bờ đê đóng cõi, những rào cản thời đại, quét đi những tàn dư, những thối nát của xã hội cũ, để làm thành cái xuất lộ cho dân tộc. Cái bộc phát ấy là đòi hỏi của lịch sử để sửa sai những cái sai quấy của thời đại cũ, những cái bất hợp lý của xã hội cũ, những cái vô lý xuẩn động và cục bộ của tư duy cũ.

Xuất lộ là khởi điểm của công cuộc xoay đổi thời đại để mở ra thời kỳ phục hưng để làm cho dân tộc Đại Việt lớn lao lên, để công tác bảo vệ bờ cõi bền vững hơn, để xây dựng một đất nước hợp lý hơn, hợp với qui luật phát triển hơn, cho thuận xu thế lịch sử hơn, cho hợp với con người hơn.

Đó là ý nghĩa của cách mạng và cũng là thông điệp lịch sử của Nguyễn Trãi gởi đến cho thế hệ chúng ta ngày hôm nay.

Luật Sư Nguyễn Xuân Phước
Dallas 15 tháng 10 năm 2004

Sách tham khảo


– Trần Gia Phụng, Việt Sử Đại Cương, tập 1, Nhà Xuất Bản Non Nước, Toronto, Canada, 2003
– Lâm Hán Đạt, Tào Dư Chương, Lịch Sử Trung Quốc 5000 năm, Nhà Xuất Bản Trẻ, Thành Phố Hồ Chí Minh, 2001
– Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, Nhà Xuất Bản Văn Hoá, Hà Nội, 1997
– Nguyễn Trãi Toàn Tập, Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, Nhà Xuất Bản Văn Học, 2000
– Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Trãi Vê Tác Giả và Tác Phẩm, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Hà Nội 2001
– Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ấn Bản Điện Tử
– Nguyễn Trãi, Lam Sơn Thực Lục Ấn Bản Điện Tử
– Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Xuân Thu 1990, tái in ấn bản của Trung Tâm Học Liệu VNCH năm 1971.
– Gavin Menzies, 1421 The Year China Discovered America, Published by Harper Collins Publishers, Inc. New York, 2002
– Thích Phước An, Từ Nguyễn Trãi đến Ngô thời Nhậm và Đưòng Lên Núi Yên Tử Thư Viện Hoa Sen
– Lý Đông A, Huyết Hoa, ấn bản điện tử do Hận Nam Quan ấn hành, Chính Khí Việt :: Khơì giòng chính khi Việt
– Lý Đông A, Chu Tri Lục, ấn bản điện tử do Hận nam Quan ấn hành Chính Khí Việt :: Khơì giòng chính khi Việt
– Lý Đông A, Việt Sử Thông Luận, ấn bản điện tử do Hận nam Quan ấn hành Chính Khí Việt :: Khơì giòng chính khi Việt

@DVCOnline

Click to listen highlighted text!