Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam
Thái Văn Kiểm
Những Sử Liệu Tây Phương Minh Chứng Chủ Quyền Của Việt Nam Tại Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa Từ Thời Pháp Thuộc .
(Trích: Sử Địa 29, Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, Sài Gòn,1975, tr 32-40)
“… Các Chúa và Vua nhà Nguyễn đã thiết lập với các hải đảo những liên lạc thường xuyên có tính cách hành-chánh, quân-sự và quan-thuế…”
I – MINH CHỨNG CỦA NGƯỜI NGOẠI QUỐC
Ngoài những tài-liệu sử địa của Việt-Nam, chúng ta còn có thể dẫn chứng nhiều tài-liệu khác của người ngoại quốc, xác nhận chủ quyền của ta trên quần-đảo Hoàng Sa, chẳng hạn như:
1. Tài-liệu của người Hòa-Lan
Căn cứ vào ký sự Batavia (Journal de Batavia) của Công ty Hòa-Lan Đông Ấn (Compagnie hollandaise des Indes orientales), ấn hành trong những năm 1631-1634-1636, chúng ta được biết một sự kiện lịch-sử liên-hệ tới quần-đảo Hoàng Sa và Xứ Đàng Trong như sau:
Ngày 20-7-1634, dưới thời Chúa Sãi Nguyễn-Phước-Nguyên (1613-1635), ba chiếc tàu Hòa-Lan tên Veenhuizen, Schagen và Grootebroek, từ Batavia (Nam-Dương) đến Touron cùng nhổ neo đi Formose (Đài-Loan).
Ngày 21 thì gặp bão ngoài khơi, nên lạc nhau. Chiếc tàu Veehuizen tới Formose ngày 2 tháng 8, chiếc Schagen ngày 10 cùng tháng. Riêng chiếc Grootebroek bị đắm gần quần đảo Pracels, ngang với bắc vĩ tuyến 17. Trong số hàng hóa trị giá 153.690 florins, thủy-thủ chỉ cứu được một số trị giá 82.995 florins, kỳ dư bị chìm đắm kể cả chiếc tàu và 9 người bị mất tích.
Số hàng hóa cứu được, họ cất dấu nơi an toàn tại đảo Pracels. Thuyền-trưởng Huijch Jansen và 12 thủy-thủ đi bằng thuyền nhỏ vào duyên hải xứ Đàng Trong. Họ hy vọng sẽ tìm được một thuyền lớn để ra cứu 50 thủy-thủ còn ở lại trên đảo. Thuyền-trưởng đem theo 5 thùng bạc và 3.570 réaux đựng trong 17 bao. Khi họ vào tới đất liền, họ không được đối đãi như ý muốn. Tất cả bạc và tiền bị tịch thâu bởi viên-chức đặc trách hải môn và thương thuyền, mà người Hòa-Lan gọi là Ongangmij.
Sau đó, họ được phép trở lại Pracels trên một chiếc tàu Nhật-Bản tên Kiko, mà họ mua đứt, để đón 50 thủy-thủ còn nơi đảo và lấy 4 thùng bạc còn lại. Tất cả đều được 3 chiếc tầu khác tên là Bommel, Goa và Zeebung (cũng bị bão mà vào núp miền duyên hải xứ Đàng Trong) chở về Batavia. Tại đây viên thuyền-trưởng Jansen làm báo trình về việc thuyền Grootebroek bị đắm tại Pracels và sự tịch thâu 23.580 réaux bởi nhà chức trách xứ Đàng Trong.
Hai năm sau, dưới thời Chúa Thượng Nguyễn-Phước-Lan (1635-1648), ngày 6 tháng 3 năm 1636, hai chiếc tầu Hòa-Lan khác tới Touron. Thương gia Abraham Duijeker tiến về Faifo để gặp quan Trấn-thủ; sau đó ông ta đi Thuận-hóa (Senoa) yết kiến Chúa Thượng, để xin giao thương, đặt thương điếm và đòi số tiền 23.580 réaux đã bị tịch thâu năm kia.
Chúa Thượng Vương tiếp đón Duijeker rất trọng hậu; nhưng Ngài truyền rằng : “Những việc khiếu nại đó đã xảy ra dưới thời Vua cha, nay Chúa không hề hay biết; vả lại viên chức thuế-quan Ongangmij (?) đã bị cách chức, tịch thu gia sản (vì tội đã ăn hối lộ tới 340.000 lượng bạc trong thời kỳ tại chức), đã bị xử trảm và phanh thây rồi”. Chúa Thượng xét rằng Ngài đã xử sự công minh lắm; nay chớ nhắc lại làm chi. Ngài cũng cam đoan từ nay pháp luật rất nghiêm minh và sẽ không bao giờ xảy ra những việc đáng tiếc như vậy nữa.
Để bù vào sự thiệt thòi đó, Chúa Thượng chấp thuận cho người Hòa-Lan được tự do giao thương với xứ Đàng Trong, và miễn cho họ sắc thuế neo bến và các tặng phẩm, (Il accordait aux Hollandais le droit de libre échange dans le pays, les exemptait pour l’avenir des droits d’ancrage et des présents usuels).
Vì lẽ đó mà từ năm 1636, một thương điếm (comptoir commercial) của người Hòa-Lan đã được thiết lập tại Hội-an (Faifo) do Abraham Duijeker làm Trưởng điếm.
(Trích trong biên-khảo “La Compagnie des Indes Néerlandaises et l’Indochine” của W.J.M. Buch, đăng trong Bulletin de l’Ecole Francaise d’Extrême Orient, tome XXXVI, année 1936, trang 134.)
2. Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) đã viết trong quyển Mémoire sur la Cochinchine như sau:
“Topographie: Division physique- La Cochinchine don’t le souverain porte aujourd’hui le titre d’Empereur, comprend la Cochinchine proprement dite, le Tonquin…, quelques iles habitées peu éloignées de la côte et l’archipel de Paracels, composé d’ilôts, d’écueils et de rochers inhabités. C’est seulement en 1816, que l’Empereur actuel a pris possession de cet archipel”. (Le Mémoire sur la Cochinchine de Jean Baptiste Chaigneau, publié et annoté par A. Salles, Inspecteur des Colonies en retraite, in Bulletin des Amis du Vieux Hue, No 2, Avrit-Juin 1923).
Có nghĩa là:
Địa thế: Xứ Cochinchine, mà Quốc-Vương ngày nay đã xưng đế-hiệu, gồm có xứ Đàng Trong, Bắc Hà (Tonquin)… vài đảo gần bờ biển, có dân cư, và quần đảo Paracels, gồm có nhiều đảo và mỏm đá thiếu dân. Vào năm 1816 vị Hoàng-đế đương kim đã tiếp nhận quần đảo này.]
3. Đức Giám-mục Taberd đã viết trong quyển Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes, xuất bản năm 1833, những dòng sau đây:
“Nous n’entrerons pas dans l’énumération des principales iles dépendantes de la Cochinchine; nous ferons seulement observer que depuis plus de 34 ans l’archipel des Paracels nommé par les Annamites Cát Vàng ou Hoàng Sa (sable jaune) véritable labryrinthe de petits ilôts de rocs et de bancs de sable justement redoutés des navigateurs a été occupé pas les Cochinchinois.
“Nous ignorons s’ils y ont fondé un établissement, mais il est certain que l’empereur Gia Long a tenu à ajouter ce singulier fleuron à sa couronne, car il jugea à propos d’en aller prendre possession en personne, et ce fut en l’année 1816 qu’il y arbore solennellement le drapeau cochinchinois” .
Tạm dịch như sau:
“Chúng tôi không đi vào việc kê khai những hòn đảo chính yếu của xứ Cochinchine. Chúng tôi chỉ xin lưu ý rằng từ hơn 34 năm nay, quần đảo Paracels – mà người Việt gọi là Cát Vàng (Hoàng Sa), gồm rất nhiều hòn đảo chằng chịt với nhau, lởm chởm những đá nhô lên giữa những bãi cát, làm cho những kẻ đi biển rất e ngại – đã được chiếm cứ bởi người Việt xứ Đàng Trong.
“Chúng tôi không rõ họ có thiết lập một cơ sở nào tại đó không; nhưng có điều chúng tôi biết chắc là Hoàng-đế Gia-Long đã chủ tâm thêm cái đóa hoa kỳ lạ đó vào vương miện của Ngài, vì vậy mà Ngài xét thấy đúng lúc phải thân chinh vượt biển để tiếp thâu quần-đảo Hoàng Sa, và chính là vào năm 1816, mà Ngài đã long trọng treo tại đó lá cờ của xứ Đàng Trong”.]
Những tài-liệu quốc-sử và ngoại sử trên kia chứng minh một cách hùng hồn và bất khả kháng chủ quyền của Việt-Nam trên hai quần-đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
4. Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội-nghị San Francisco.
Theo Hiệp-ước đình-chiến ký kết tại San Francisco, vào tháng 9 năm 1951, khoản 2, nước Nhật-Bản phải rút lui khỏi các nơi mà họ đã dùng vũ-lực để chiếm đóng trong thời đệ nhị thế-chiến, lẽ tất nhiên là trong đó có hai quần-đảo Paracels và Spratley.
Tại Hội-nghị San Francesco, ngày 7-9-1951, Thủ-Tướng Chính-Phủ, Trưởng Phái-đoàn Việt-Nam, đã long trọng tuyên bố trước 51 phái-đoàn ngoại-bang như sau :
“Et comme il faut franchement profiter de toutes occasion pour étouffer les germes de discorde, nous afirmons nos droits sur les iles Spratley et Paracels qui, de tout temps, ont fait partie du Viet-Nam”.
Xin tạm dịch là:
“Và vì chưng phải lợi dụng tất cả mọi trường hợp để chặn đứng những mầm xung đột, chúng tôi xác nhận chủ quyền của chúng tôi trên các quần-đảo Trường Sa và Hoàng Sa, đã luôn luôn từ xưa thuộc lãnh-thổ Việt-Nam”.]
Lời tuyên bố đó đã được Hội-nghị San Francisco long trọng ghi vào biên bản và trong tất cả 51 phái-đoàn phó hội, không có một phái-đoàn nào phản đối gì cả.
II – HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA QUA THỜI PHÁP THUỘC ĐẾN NAY
1. Danh từ Paracels xuất hiện từ bao giờ.
Danh từ Pracels xuất hiện lần đầu tiên trên một bản đồ Bán đảo Đông-Dương (Carte de la Peninsule Indochinoise) do Frères Van Langren, người Hòa-Lan, ấn hành năm 1595.
Bản đồ này phác họa nhờ những tài liệu của người Bồ Đào Nha, nối gót nhà hàng hải Vasco de Gama, đã tiên phong đông du tìm kiếm xứ Ấn-Độ bằng đường biển (route maritime des Indes) bằng cách đi vòng mũi Hảo Vọng (Cape de Bonne Espérance) năm 1497. Nhiều tàu thủy Bồ Đào Nha đã tới Malacca từ năm 1509, Xiêm-La từ năm 1511, vào năm 1516 thì Fernando Perez d’Andrade đến cửa biển sông Mekong.
Theo giáo-sư Pierre Yves Manguin, danh từ Ilhas do Parcel (Pracel) do người Bồ Đào Nha đặt ra. Trong từ ngữ của họ, danh từ Parcel có nghĩa là “đá ngầm” (récif), cao tảng (haut-fond). (xem biên-khảo “Les Portuguais sur les côtes du Vietnam et du Campa”) đăng trong Bulletin de l’Ecole Francaise d’Extrême Orient,année 1972, page 74).
Nhưng theo giáo-sư A. Brébion, Paracels do tên một chiếc tàu của Công-ty Hòa-Lan Đông Ấn, tên Paracelsse, bị chìm đắm tại quần đảo này hồi thế kỷ XVI. (Xem Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne, de l’Indochine Francaise,1935, Société d’Editions Géographiques, maritimes et Coloniales, 17 Rue Jacob, Paris VIè).
Riêng về danh từ Trường-Sa, chúng ta đã thấy trong Hồng Đức Bản Đồ phác họa từ đời Lê-Thánh-Tông (1470-1498), vào ngày mồng 6 tháng 4 năm Hồng Đức 21 (25 avril 1490); bản đồ có ghi nơi đất liền “Trường Sa nhất nhật trình”, tất nhiên đây không phải là quần-đảo, mà là bờ biển chạy dài từ cửa Nhật Lệ (Quảng-Bình) cho tới Phá Tam Giang (Thừa-Thiên) qua các cửa Tùng Luật và Việt Yên (Quảng-Trị). Bờ biển đầy cát trắng mênh mông, phải đi mất một ngày đường (nhất nhật trình). Trong bộ Đại Nam Nhất Thống Chí, những quyển nói về Quảng-Bình, Quảng-Trị và Thừa-Thiên đều có nói về dãy Trường Sa này, cũng có tên là Động Trường Sa, Động Bạch Sa (xưa gọi là Đại Trường Sa). Sách Ô Châu Cận Lục của Dương-Văn-An (1555) cũng có nhắc tới Trường Sa đã chỉ định dải cát trắng dài dằng dặc chạy suốt duyên hải Bình Trị Thiên.
2. Hoàng Sa dưới thời Pháp.
Dưới thời Pháp, quần đảo Paracels luôn luôn được nhà cầm quyền lưu ý tới. Từ năm 1920, Nha Thương-chánh (Douanes) đã tổ chức những cuộc tuần-du chung quanh đảo Hoàng Sa, để ngăn ngừa buôn lậu. Năm 1925, Hải-học-viện Nha-Trang có gửi một phái-đoàn bác-học, đi trên tầu De Lanessan, ra Hoàng Sa để nghiên cứu tường tận tại chỗ. Phái-đoàn nhận thấy quần-đảo này chứa đựng rất nhiều phốt-phát. Phái-đoàn cũng khảo sát nhiều bằng chứng rằng quần đảo Paracels nằm trên một cao-nguyên chìm dưới biển và dính liền với lục-địa Việt-Nam.
Nhiều công-ty Nhật-Bản đã xin phép chính quyền Pháp tại Đông-Dương, để khai thác phốt-phát và họ đã xây một con đê bằng đá phốt-phát (jetée en blocs de phosphate) và một chiếc cầu sắt dài 300 thước nơi đảo Robert, để tiện việc chuyên chở phốt-phát lên tàu thủy.
Vì có sự giao thiệp với ngoại nhân nơi đảo này, nên chi nhà cầm quyền hồi đó đã ký một nghị-định ngày 15 juin 1932, thiết lập quần-đảo Hoàng Sa thành một đại-lý hành-chánh (délégation administrative) , gọi là Délégation administrative des Paracels, sáp nhập với tỉnh Thừa-Thiên. Đến năm 1939, mới chia làm hai, lấy tên là “Délégation du Croissant et dépendances” và “Délégation de l’Amphitrite et dépendances”.
Cũng vào năm đó, khi trận đệ nhị thế-chiến bùng nổ, quân-đội Thiên-Hoàng Nhật-Bản ngang nhiên chiếm đóng quần-đảo, lập tại đây một căn-cứ quân-sự, cho đến khi họ đầu hàng Đồng-Minh.
3. Trường Sa dưới thời Pháp thuộc.
Người Trung-Hoa gọi quần-đảo này là Nam Sa (Nansha), đại khái chỉ định một cách mập mờ tất cả những hòn đảo rải rác phía dưới quần-đảo Hoàng Sa.
Năm 1927, chiếc tàu De Lanessan đã tới tận nơi để khảo sát, sau khi đã khảo sát tại Paracels. Sau đó, năm 1930, chính quyền Pháp tại Đông-Dương đã chính thức cử một phái-đoàn ra cắm cờ tại quần-đảo Spratley. Phái-đoàn đi trên chiếc tàu “La Malicieuse”. Đến năm 1933, họ lại cử ba chiếc tàu khác là : Alerte, Astrobale và De Lanessan, ra tận nơi để cắm cờ trên những hòn đảo khác, rải rác chung quanh đảo chính Spratley.
Công việc thâu nhận từng hòn đảo bắt đầu từ ngày 13 tháng 4 năm 1930, với đảo Spratley; tiếp theo là đảo Caye d’amboine thâu nhận ngày 7-4-1933, đảo Itu Aba thâu nhận ngày 14-4-1933, nhóm Hai Đảo (Groupe des deux iles) thâu nhận ngày 10-4-1933; đảo Loaita thâu nhận ngày 11-4-1933; đảo Thi Tu thâu nhận ngày 12-4-1933.
Công việc thâu nhận (prise de possession) này bao gồm tất cả những hòn đảo con con rải rác chung quanh những hòn đảo chính đã kể trên kia.
Một bản thông cáo chính thức đã được đăng tải trong Công-báo Đông-Dương (Journal Officiel de l’Indochine) ngày 25 septembre 1933, trang 7784.
Quần-đảo Trường Sa đã được sáp nhập vào tỉnh Bà-Rịa (Nam-Việt) do nghị định của Toàn Quyền Đông-Dương, ký ngày 21 juillet 1933.
Chúng ta cũng nên ghi thêm rằng từ năm 1920, có nhiều công-ty Nhật-Bản đến đây khai thác phốt-phát. Thỉnh thoảng cũng có một số ngư phủ Trung-Hoa chèo ghe từ Hải-Nam, Quảng Đông tới đây để đánh cá, làm ăn trong mấy tháng rồi trở về quê quán.
Sau hết, chúng ta cũng nên ghi rằng năm 1938, Nha Khí-tượng Đông-Dương (Service Météorologique de l’Indochine) có thiết lập tại đảo Itu Aba, một cơ sở khí tượng bao trùm tất cả miền duyên hải Đông-Dương.
Trước ngày khai chiến, chính phủ Nhật-Bản đã tuyên bố ngày 30-03- 1939 rằng quần-đảo Spratley từ nay sẽ đặt dưới quyền kiểm-soát của Nhật-Bản. Viên Đại-sứ Pháp tại Đông-Kinh liền gửi thư phản kháng ngày 21-04-1939, và tuyên bố phủ nhận quyết-định đơn phương của chính phủ Thiên-Hoàng. Rồi chúng ta phải đợi tới ngày đình chiến, để chứng kiến việc quân-đội Nhật rút khỏi Trường Sa, cũng như do Hiệp-ước đình chiến San Francisco, chính-phủ Nhật-Bản đã long trọng từ bỏ chủ quyền của họ trên hải đảo Paracels và Spratley (1951).
Sau đó, chính phủ Việt-Nam Cộng-Hòa đã nhiều lần xác nhận long trọng chủ-quyền của mình trên hai quần-đảo nói trên.
4. Công cuộc thực hiện chủ quyền của Việt-Nam trong thời cận đại.
a) Thời tiền chiến.
Các công tác thực hiện chủ quyền của Việt-Nam trên hai quần-đảo Hoàng Sa và Trường Sa gồm có:
– Năm 1920, Quan-thuế Pháp gửi quan-thuyền đến tuần tiểu thường xuyên quần đảo Hoàng Sa.
– Từ năm 1926 đến 1933, chính phủ Pháp đã cử chiến-hạm và phái-đoàn thám sát hai quần-đảo này.
– Từ 1931 đến 1939, Pháp gửi binh-sĩ tới trú đóng tại Hoàng Sa. Năm 1947, Pháp thiết lập đài vô tuyến tại đảo Pattle để bảo đảm an-ninh thủy-vận cho vùng Nam Hải.
Về phương diện hành-chánh, trong thời kỳ đó nhà cầm quyền Pháp và Việt đã có những quyết-định như sau :
– Nghị-định số 156-SC ngày 15-6-1932 của Toàn Quyền Đông-Dương đặt quần-đảo Hoàng Sa thành đơn-vị hành-chánh sáp nhập với tỉnh Thừa-Thiên.
– Thông cáo của Bộ Ngoại-Giao Pháp về việc chiếm cứ quần-đảo Trường Sa đăng trong Công-báo của chính-phủ Pháp số 173 ngày 26-7-1933 trang 7839.
– Nghị-định số 4762 ngày 21-12-1933 của Thống-đốc Nam-Kỳ sáp nhập quần-đảo Trường Sa vào tỉnh Bà-Rịa.
– Dụ số 10 ngày 30-3-1933 năm Bảo Đại thứ 13 đặt quần đảo Hoàng Sa trực thuộc tỉnh Thừa-Thiên.
– Nghị-định số 3282 ngày 5-5-1939 của Toàn Quyền Đông Dương sửa đổi nghị-định trên và chia địa hạt trên ra làm hai nhóm : Nhóm Nguyệt Thiềm (Délégation du Croissant et dépendances) và Nhóm Tuyên Đức (Délégation de l’Amphitrite et dépendances). Trụ sở của hai vị đại-diện Pháp được đặt tại đảo San Hồ (Pattle) và đảo Phú-Lâm (Ile boisée).
b) Thời Cộng-Hòa
Dưới thời đệ nhất (1956-1963) và đệ nhị Cộng-Hòa (từ 1964…), chính phủ Việt-Nam Cộng-Hòa đã có nhiều công tác và quyết-định hành-chánh liên hệ tới Hoàng-Sa và Trường-Sa:
– Từ 1956, Hải-quân VNCH thường xuyên thám sát quần-đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
– Từ đó một trung-đội Địa-Phương-Quân tỉnh Quảng_Nam, gồm 40 người, do 1 sĩ-quan cấp úy chỉ-huy trú đóng tại đảo Hoàng Sa.
Các văn kiện hành-chánh căn bản gồm có:
– Sắc-Lệnh số 143/NV ngày 22-10-1956, Nghị-định số 76/BNV/HC/ND ngày 20-3-1958 và Sắc-Lệnh số 34/NV ngày 29-1-1959 sáp nhập quần-đảo Trường Sa vào tỉnh Phước-Tuy (Bà-Rịa).
– Sắc-lệnh số 174/NV ngày 13-7-1961 của Tổng-Thống VNCH đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng-Nam (thay vì thuộc tỉnh Thừa-Thiên) và thành lập quần-đảo này thành xã Định-Hải, thuộc quận Hòa-Vang.
– Do Sắc-lệnh số 709/BNV/HC ngày 21-10-1969 của Thủ-Tướng Chính-phủ VNCH, xã Định-Hải được sát nhập làm một với xã Hòa-Long, cùng thuộc quận Hòa-Vang, tỉnh Quảng-Nam.
III – KẾT LUẬN
Căn cứ vào các dữ kiện lịch-sử và hành-chánh thượng dẫn, ta có thể khẳng định chủ-quyền bất khả xâm của Việt-Nam Cộng-Hòa trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong cả bốn phương-diện: lịch-sử, địa-lý, pháp-lý và thực-tế.
Các Chúa và Vua nhà Nguyễn đã thiết lập với các hải đảo những liên lạc thường xuyên có tính cách hành-chánh, quân-sự và quan-thuế, chưa kể việc xây dựng quân trại, miếu vũ, mộ bia, v.v… đã trở thành những di-tích lịch-sử.
Nhìn lại quá trình lịch-sử chúng ta thấy một số sự kiện lịch-sử và địa-lý quan trọng đáng ghi nhớ là:
– Năm 1634, một chiếc tàu Hòa-Lan đã bị chìm đắm tại Hoàng-Sa (Paracels), viên Thuyền-trưởng và đoàn thủy-thủ lâm nạn đã được quan chức Quảng-Nam, dưới thời chúa Sãi, giúp đỡ cho trở về xứ Batavia.
– Năm 1702, dưới thời Chúa Minh Nguyễn-Phước-Chu, và từ đó về sau, sử sách đã nói tới Đội Hoàng Sa có nhiệm vụ tuần tiểu hải phận xứ Đàng Trong, kiểm soát các thương thuyền và đặc biệt thâu lượm được nhiều hàng hóa và kim khí, vật dụng tại quần đảo Hoàng Sa, đem về nộp cho Phủ Chúa tại Phú-Xuân.
– Năm 1802 (đầu niên hiệu Gia-Long), “cũng phỏng theo chế-độ cũ, đặt Đội Hoàng Sa” ( theo Đại Nam Nhất Thống Chí).
– Năm 1816, Vua Gia-Long thân chinh tiếp nhận quần-đảo Hoàng Sa và thượng quốc-kỳ trên đảo (theo Jean Baptiste Chaigneau và Giám-mục Taberd).
– Năm 1820 (đầu niên hiệu Minh-Mạng) “thường sai thuyền công đến nơi dò xét hải trình…” (theo Đại Nam Nhất Thống Chí).
– Năm 1835, Vua Minh-Mạng truyền lập miếu Hoàng Sa dựng bia đá và tấm bình phong.
– Năm 1951, tại Hội-nghị San Francisco, Thủ-Tướng Chính-phủ, Trưởng Phái-đoàn, đã công khai và long trọng tuyên bố chủ-quyền của Việt-Nam trên hai quần-đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà chẳng có một nước nào (trong số 51 nước tham dự hội-nghị) phản đối cả.
Như vậy là chúng ta đã hội đủ những bằng chứng cụ thể tỏ rõ rằng các quần-đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của mình (animus) và mình đang khai thác (corpus) các hải-sản, hải-sâm, phân chim, ốc xà-cừ, phốt-phát, đồi mồi, cát trắng, cát vàng, v.v… chứ không phải là hoang đảo (res derelicta) mặc cho ai muốn chiếm thì chiếm.
Trải mấy ngàn năm lịch-sử, tổ-tiên chúng ta đã tranh giành từng tấc đất ngọn rau trong cuộc bành-trướng lãnh-thổ khắp ba mặt: Nam tiến, Tây tiến và Đông tiến, lấy Trường Sơn, sông Cửu Long và Nam Hải làm địa bàn sinh hoạt, như muốn thi gan đấu sức với núi cao bể cả, nói lên ý-chí quật cường của một dân-tộc chưa bao giờ chịu lùi bước trước nguy nan.
Ngày nay, đương đầu với những thử thách lớn lao, chúng ta chỉ có một con đường là trường kỳ chiến-đấu trên mọi mặt: quân-sự, chính-trị, ngoại-giao, để bảo vệ chủ quyền và sự vẹn toàn lãnh-thổ, lãnh-hải quốc-gia Việt-Nam.
Nguồn: http://www.vietnamreview.com