Welcome to Nguyễn-Thái-Học Foundation   Click to listen highlighted text! Welcome to Nguyễn-Thái-Học Foundation

Triều Đại Nhà ĐINH


Năm 944, Ngô Quyền mất, em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi của nhà Ngô, xưng Dương Bình Vương. Các nơi không chịu thuần phục, nhiều thủ lĩnh nổi lên cát cứ các vùng thường đem quân đánh lẫn nhau. Con trưởng của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập bỏ trốn. Dương Tam Kha nhận Ngô Xương Văn – con thứ của Ngô Quyền – làm con nuôi. Năm 950, Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, trở thành Nam Tấn Vương. Ngô Xương Ngập được đưa về, cũng làm vua, là Thiên Sách Vương. Đó là thời Hậu Ngô Vương.

Năm 954, Ngô Xương Ngập chết. Đến năm 965, Ngô Xương Văn chết, con Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp. Nhưng vì thế lực suy yếu nên lui về giữ đất Bình Kiều. Quý tộc nhà Ngô, các tướng nhà Ngô cùng các thủ lĩnh địa phương đều nổi dậy chiếm cứ một vùng. Bắt đầu từ đó hình thành thế mà sử sách gọi là loạn 12 sứ quân.

Trong số các lực lượng nổi dậy chống triều đình, nổi lên Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Hoàn). Ông là người Hoa Lư, châu Đại Hoàng. Cha là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan.

Thời kỳ đó Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở Hoa Lư. Sau vì bất đồng với người chú, Đinh Bộ Lĩnh cùng con trai Đinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công (Trần Lãm) ở Bố Hải Khẩu. Sau khi Trần Minh Công chết [1], Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác.

Trong hơn 3 năm, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân, thống nhất đất nước. Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, kinh đô Hoa Lư.

Đinh Bộ Lĩnh (924–979)

Tượng Đinh Tiên Hoàng ở Hoa Lư

Tên là Đinh Hoàn, Bộ Lĩnh chỉ là chức vụ. Ông là người đã dẹp loạn 12 sứ quân trở thành vua Đinh Tiên Hoàng, vị vua đầu tiên của nhà Đinh.

Đinh Bộ Lĩnh sinh năm 924, người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Có tài liệu[2] cho rằng ông sinh ngày Rằm tháng Hai, năm Giáp Thân (924) ở thôn Kim Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay là thôn Vân Bòng, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình).

Cha của ông là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Hoan Châu.

Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, nương nhờ người chú ruột là Đinh Dự. Từ bé Đinh Bộ Lĩnh đã tỏ ra là người có khả năng chỉ huy, ông cùng các bạn chăn trâu lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Và trong đám bạn đó, có Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ và Trịnh Tú, những người sau này cùng Đinh Bộ Lĩnh tạo nên sự nghiệp.

Có một giai thoại về Đinh Bộ Lĩnh thuở bé. Một lần Đinh Bộ Lĩnh quyết định cho mổ con trâu của người chú để “khao quân”. Ông mang đuôi trâu cắm vào một khe núi. Đến tối Đinh Dự hỏi, Đinh Bộ Lĩnh nói dối trâu vào hang và cửa hang đã bị lấp lại. Đinh Dự tới nơi, rút cái đuôi trâu ra, giận người cháu nói dối nên đuổi đánh. Đinh Bộ Lĩnh bỏ đi mất.

Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư bản kỉ, quyển 1, có chép:
Trước kia, khi vua [Đinh Tiên Hoàng] còn hàn vi, thường ra sông Giao Thủy [ở Ninh Bình] để đánh cá. Có lần kéo lưới, bắt được viên ngọc khuê to, nhưng lại lỡ làm va vào mũi thuyền, khiến bị mẻ mất một góc. Đêm ấy, nhà vua vào ngủ nhờ ở chùa Giao Thủy, để viên ngọc ở dưới đáy giỏ cá. Đang khi nhà vua ngủ say, thấy giỏ cá có ánh sáng lạ phát ra, nhà sư của chùa Giao Thủy bèn gọi Nhà vua dậy để hỏi cho ra duyên cớ. Nhà vua cứ tình thực mà kể, lại còn lấy viên ngọc cho nhà sư xem. Xem xong, nhà sư than rằng: “Ngày sau, anh sẽ phú quý không biết kể thế nào cho hết, nhưng tiếc là phúc đức không được bền lâu[3]…”

Năm 944 Ngô Quyền mất. Em vợ của Ngô Quyền là Dương Tam Kha tự lập làm vua là Dương Bình Vương. Các nơi không chịu thuần phục, nhiều thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng thường đem quân đánh chiếm lẫn nhau. Năm 950, Ngô Xương Văn, con thứ hai của Ngô Quyền, lật đổ Dương Tam Kha giành lại ngôi vua. Sau đó Ngô Xương Văn đón anh trai là Ngô Xương Ngập về, Dương thái hậu (Dương Như Ngọc) chuẩn tấu cả hai anh em đều làm vua. Đến năm 954, Ngô Xương Ngập bệnh mất.

Loạn 12 Sứ Quân

Năm 965, Ngô Xương Văn đi đánh thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình [4] bị phục binh bắn chết. Con của Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp, quá suy yếu phải về đóng giữ đất Bình Kiều. Từ năm 966, hình thành 12 sứ quân, sử gọi là loạn 12 sứ quân:

1. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều – Khoái Châu, Hưng Yên (có sách nói Bình Kiều ở Triệu Sơn, Thanh Hoá. Ngay cả Đào Duy Anh, trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời, chỉ trong 2 trang sách liền kề cũng chú thích Bình Kiều ở hai nơi khác nhau như trên)
2. Đỗ Cảnh Thạc, giữ Đỗ Động Giang – Thanh Oai, Hà Tây
3. Trần Lãm, giữ Bố Hải Khẩu – Kỳ Bố, Thái Bình
4. Kiều Công Hãn, giữ Phong Châu – Bạch Hạc, Phú Thọ
5. Nguyễn Khoan, giữ Tam Đái – Vĩnh Tường, Sơn Tây
6. Ngô Nhật Khánh, giữ Đường Lâm – Phú Thọ, Sơn Tây
7. Lý Khuê, giữ Siêu Loại – Thuận Thành, Bắc Ninh
8. Nguyễn Thủ Tiệp, giữ Tiên Du – Bắc Ninh
9. Lã Đường, giữ Tế Giang – Văn Giang, Hưng Yên
10. Nguyễn Siêu, giữ Tây Phù Liệt – Thanh Trì, Hà Nội
11. Kiều Thuận, giữ Hồi Hồ – Cẩm Khê, Sơn Tây
12. Phạm Bạch Hổ, giữ Đằng Châu – Hưng Yên

Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở vùng Hoa Lư. Nhưng sau đó, do bất hòa với người chú, ông cùng con trai là Đinh Liễn bỏ đi. Đinh Bộ Lĩnh đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công tức Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu. Đinh Bộ Lĩnh cưới Trần Nương và trở thành con rể của Trần Minh Công[5]. Sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác.

Chỉ trong vài năm, Đinh Bộ Lĩnh lần lượt đánh thắng 11 sứ quân khác, được xưng tụng là Vạn Thắng vương. Căn cứ vào chính sử và các nguồn tài liệu của các nhà nghiên cứu, điển hình là Nguyễn Danh Phiệt (sách “Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước”), Đinh Bộ Lĩnh không đánh dẹp tất cả các sứ quân:

* Sứ quân Phạm Bạch Hổ tự nguyện về quy phục
* Các sứ quân Ngô Xương Xí và Ngô Nhật Khánh đầu hàng
* Các sứ quân Nguyễn Siêu, Nguyễn Thủ Tiệp, Kiều Công Hãn, Lã Đường, Kiều Thuận, Đỗ Cảnh Thạc chống cự và bị giết
* Các sứ quân Nguyễn Khoan, Lý Khuê được xác định là lực lượng tự tan rã, không rõ kết cục của chủ tướng. Chiến tranh kết thúc năm 968.

Đại Cồ Việt

Năm Mậu Thìn 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Vua lập 5 hoàng hậu là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc và Ca Ông. Đinh Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Định Quốc công, Đinh Điền là ngoại giáp, Lê Hoàn làm Thập Đạo tướng quân và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt vương.

Từ năm Canh Ngọ 970, bắt đầu đặt hiệu năm là Thái Bình. Đinh Tiên Hoàng truyền cho đúc tiền đồng, là tiền tệ xưa nhất ở Việt Nam, gọi là tiền đồng Thái Bình. Về chính trị trong nước có phần quá thiên về sử dụng hình phạt nghiêm khắc.

Về ngoại giao, để tránh cuộc đụng độ, năm Nhâm Thân 972[6], Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn sang cống nhà Tống Trung Quốc. Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ. Từ đó Đại Cồ Việt giữ lệ sang triều cống phương Bắc.

Về quân sự, Đinh Tiên Hoàng phân ra đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi một đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Như vậy quân đội nhà Đinh khi đó có 10 đạo, là khoảng 1 triệu người. Tuy nhiên con số này không đúng với thực tế.

Đinh Tiên Hoàng có con trưởng là Đinh Liễn, nhưng ông lại lập con út Hạng Lang làm Thái tử. Vì vậy đầu năm 979 Đinh Liễn tức giận sai người giết Hạng Lang.

Theo chính sử, năm Kỷ Mão 979, một viên quan là Đỗ Thích, mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 11 năm, thọ 56 tuổi. Ông được táng ở sơn lăng Trường Yên.

Nhà sử học Lê Văn Hưu viết trong Đại Việt sử ký toàn thư: “Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng Hoàng Đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý Trời vì nước Việt ta mà sinh bậc thánh triết…”

Dương Vân Nga (952 – 1000)

Vợ của vua Đinh Tiên Hoàng, sau trở thành Hoàng hậu của vua Lê Đại Hành. Bà đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự chuyển giao giữa nhà Đinh và nhà Tiền Lê. Vì làm hoàng hậu, sử sách cũng nhắc tới bà với tên Dương hậu hay Dương thái hậu.

Nghi Án

Theo sử sách, năm Kỷ Mão 979, Đinh Bộ Lĩnh cùng con trai Đinh Liễn bị viên hoạn quan Đỗ Thích ám sát. Trước đó Thái tử Hạng Lang bị Đinh Liễn giết. Đinh Toàn – con Dương Vân Nga – con trai còn lại của Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi. Dương Văn Nga trở thành Thái hậu.

Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu gần đây có xu hướng bác bỏ giả thiết cho rằng cha con Đinh Tiên Hoàng là do Đỗ Thích giết mà đặt giả thiết thủ phạm chính là Lê Hoàn cùng với sự hậu thuẫn của Dương Vân Nga. Họ lý giải rằng Lê Hoàn muốn toan tính lấy ngôi, còn Dương Vân Nga trong cuộc tranh đua với các hoàng hậu khác để giành ngai vàng cho con trai đã cấu kết với Lê Hoàn.

Click to listen highlighted text!