Tài liệu Lịch sử chứng minh các quần đảo ở biển Nam Trung Hoa chưa bao giờ là lãnh thổ của Trung quốc
Phạm Hân
Để biện minh cho yêu sách về lãnh thổ của Trung Quốc đối với các quần đảo ở biển “Nam Trung Hoa” (tức biển Đông) thường được phía Trung Quốc gọi là “các đảo Nam Hải”, từ năm 1975 các học giả Trung Quốc đã tìm tòi, lượm lặt những chi tiết liên quan đến biển “Nam Trung Hoa” trong kho sách cổ Trung Quốc để tạo dựng luận thuyết nói rằng “các đảo Nam Hải từ xưa đến nay là lãnh thổ Trung Quốc” do nhân dân Trung Quốc “phát hiện và đặt tên sớm nhất” “khai phá và kinh doanh sớm nhất”, do Chính phủ Trung Quốc “quản hạt và hành sử chủ quyền sớm nhất”.
Hàng loạt sách cổ và bản đồ cổ đã được viện dẫn để làm chỗ dựa cho luận thuyết nói trên.
Song, sự thật hoàn toàn không phải như thế. Hàng trăm sách và bản đồ Trung Quốc cho đến cuối đời Thanh (1911) người ta có thể tìm thấy trong cơ quan lưu trữ ở Hà Nội và ở nước ngoài chứng minh ngược lại rằng các quần đảo ở biển “Nam Trung Hoa” chưa bao giờ là lãnh thổ Trung Quốc.
Từ những tài liệu lịch sử đó thấy rõ những “bằng chứng” các học giả Trung Quốc đưa ra nhằm làm chỗ dựa cho “luận thuyết” của mình là không đúng sự thật. Vì vậy, bài viết này muốn đưa ra công luận sự thật lịch sử nói trên.
Về luận thuyết “phát hiện sớm nhất”, “đặt tên sớm nhất”, “khai thác kinh doanh sớm nhất” dù có đúng sự thật cũng sẽ vô nghĩa vì đây không phải là hành vi nhà nước nhằm thụ đắc hay thực hiện chủ quyền đối với các quần đảo ở vùng biển này.
Vì vậy, bài viết chỉ đi sâu phân tích những tài liệu đã được viện dẫn để nói rằng chính phủ Trung Quốc đã “quản hạt và hành sử chủ quyền sớm nhất” đối với các quần đảo ở biển Nam Trung Hoa.
Để chứng minh nhà nước Trung Quốc đã “quản hạt và hành sử chủ quyền sớm nhất” đối với các quần đảo ở Biển Nam Trung Hoa, các học giả Trung Quốc đã đưa ra các “bằng chứng” sau đây:
– Các đảo Nam Hải đã được “sáp nhập” vào đảo Hải Nam năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường (789);
– Chính phủ Trung Quốc đã sai thuỷ quân đi “tuần tiễu” các đảo Nam Hải;
– Nhà Nguyên đã sai nhà thiên văn Quách Thủ Kính đến quần đảo “Tây Sa” đo đạc thiên văn.
– Chính phủ Trung Quốc kháng nghị, buộc người Đức ngừng việc quan trắc các đảo Nam Hải 1883;
– Chính quyền địa phương Trung Quốc thực hiện nghĩa vụ cứu giúp tàu thuyền nước ngoài lâm nạn ở vùng biển “Tây Sa”;
– Các đảo Nam Hải đã được vẽ vào bản đồ Trung Quốc.
Sau đây là sự thật về những tài liêu gọi là bằng chứng để làm chỗ dựa cho luận thuyết chính phủ Trung Quốc “đã quản hạt và hành sử chủ quyền sớm nhất” đối với các đảo Nam Hải nói trên.
1. Trước hết, về việc “sáp nhập” các đảo Nam Hải vào đảo Hải Nam năm 789.
Các học giả Trung Quốc viện dẫn đoạn viết về lịch sử và địa lý đảo “Hải Nam” trong Chư Phiên Chí của Triệu Nhữ Quát đời Tống để chứng minh cho luận cứ này.
Trong Hội biên sử liệu các đảo Nam Hải nước ta (1988), các tác giả trích dẫn đoạn văn liên quan trong Chư Phien Chí để nói rằng “Các đảo Nam Hải từ năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường (789) đã thuộc phạm vi quản hạt của Trung Quốc” (Trang 33).
Trong bài viết đăng trên tạp chí Window (HongKong) ngày 3/9/1993, tác giả đăng nguyên văn Chư Phiên Chí và quả quyết rằng:
“Năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên, quần đảo Nam Sa đã được đặt dưới sự quản hạt của phủ Quỳnh Châu”.
Vậy tác giả Chư Phiên Chí viết như thế nào mà các học giả Trung Quốc ngày nay lại khẳng định như thế?
Chư Phiên Chí là cuốn sách viết về nước ngoài. Cuốn sách, tác giả có chép về đảo Hải Nam. Mở đầu mục này, tác giả viết: “Hải Nam là Châu Nhai, Đảm Nhĩ nhà Hán.
Vũ Đế (140-87 TCN) bình Nam Việt sai sứ từ Từ Văn vượt biển lấy đất đặt hai quận Châu Nhai, Đảm Nhĩ.
Nguyên Đế (48-33 TCN) theo lời bàn của Giả Quyên bỏ Châu Nhai. Đời Lương (502-557), Tuỳ (581-618) lại đặt như cũ. Nhà Đường, năm đầu niên hiệu Trung Quán (627) tách làm 3 châu Nhai, Đảm, Chấn thuộc Lĩnh Nam Đạo.
Năm thứ 5 tách (huyện) Quỳnh Sơn của Nhai (Châu) đặt thành quận, nâng huyện Vạn An làm châu, nay là Vạn An Quân, Đảm, Chấn nay là Cát Dương quân, Xương Hoá quân. Năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên (789) lấy Quỳnh (Sơn) làm Phủ đô đốc.
Nay theo như thế. Từ Văn có Đệ Giác Trường, đối với Quỳnh (Hải Nam) cách nhau chừng hơn 360 dặm, thuận gió nửa ngày thì đến. Dòng giữa gọi là Tam Hợp Lưu (dòng nước xoáy đến từ 3 ngả) đến đây không sóng gió người đi thuyền giơ tay chúc mừng nhau. Đến Cát Dương vẫn là Biển, đất cát chẳng còn.
Bên ngoài có Châu (đảo) gọi là U-ri, là Su-ji-liang . Phía Nam đối diện với Chiêm Thành, phía Tây trông về Chân Lạp, phía Đông là Thiên Lý Trường Sa, Vạn lý Thạch Đường, mênh mông không bờ bến, trời nước một mầu, người đi thuyền qua lại chỉ lấy kim la bàn làm chuẩn, ngày đêm trông coi cẩn thận, sai sót tí chút sống chết kề bên.
Bốn quận gồm 11 huyện thuộc Quảng Nam Tây Lộ” (tờ 15b-16a).
Qua đoạn văn trích dẫn trên người ta thấy tác giả viết hai ý khác nhau. Đoạn đầu, tác giả tóm lược lịch sử đảo Hải Nam. Đoạn tiếp theo tác giả mô tả vị trí địa lý đảo này trong tương quan với các vùng đất, biển “bên ngoài” không thuộc Trung Quốc.
Sự thật về sự kiện năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên (789) đời Đường là như vậy. Sự kiện xảy ra ở đảo Hải Nam năm 789, sử sách Trung Quốc chép rành rọt năm đó, đô đốc nhà Đường là Lý Phục cho quân từ đại lục sang lấy lại đảo Hải Nam sau hơn 100 năm dân bản địa nổi dậy làm chủ đảo, không hề có sự sát nhập các đảo Nam Hải và đảo Hải Nam.
Việc Quỳnh Châu được đặt làm “Phủ đô đốc” năm 789 với “Thiên lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường” là hai ý khác hẳn nhau, sao có thể ghép lại để tạo ra một ý mới là các đảo Nam Hải được “sáp nhập” vào Hải Nam năm 789?
2. Hai là, về việc phái thuỷ quân đi “tuần tiễu” các đảo Nam Hải.
Các học giả Trung Quốc dẫn ba sự kiện để chứng minh. Đó là việc triều đình Bắc Tống “đặt dinh luỹ thuỷ quân tuần biển” ở Quảng Châu; chép trong Vũ Kinh tổng yếu; việc viên tướng nhà Nguyên đi qua “Thất Châu Dương, Vạn lý Thạch Đường” trên đường đi đánh Gia-Va năm 1293 chép trong Nguyên Sử; việc viên phó tướng Quảng Đông Ngô Thăng đi tuần ở Hải Nam năm 1710-1712 chép trong Tuyền Châu phủ chí.
Sự thật về ba sự kiện đó như sau:
– Về sự kiện triều đình Bắc Tống “đặt dinh luỹ thuỷ quân tuần biển”, Vũ Kinh tổng yếu chép rằng, quân Nam Hải (thuộc Quảng Đông ngày nay) là đất Bách Việt xưa, đời Hán chia làm quận huyện, đời Tống thành nơi đô hội, có mối lợi về buôn bán với nước ngoài, người Phiên người Hán ở lẫn lộn, “sai quân nhà vua đến trấn giữ, đặt dinh luỹ thuỷ quân tuần biển” ở cửa biển sau này.
Sau khi mô tả vị trí nơi đặt dinh luỹ thuỷ quân, tác giả Vũ Kinh tổng yếu chép lộ trình đường biển từ cửa biển Quảng Châu sang Ấn Độ Dương:
“Từ Môn Sơn dùng gió Đông đi về phía Tây nam 7 ngày đến Cửu Nhũ Loa Châu, đi ba ngày nữa đến Bất Lao Sơn (Tác giả chú thích: “Thuộc nước Hoàn Châu”, nay là Cù Lao Chàm), lại đi ba ngày nữa về phía Nam đến phía Đông Lăng Sơn (mũi Đại Lãnh). Phía Tây Nam nơi này là các nước Đại Thực (Ả Rập), Phật Sư tử (Sri-Lanka), Thiên Trúc (Ấn Độ) không thể tính được hành trình” (quyền 20, tờ 19a-19b).
Tác giả Vũ Kinh tổng yếu chép rõ hai ý khác nhau. Một là do thủ phủ quận Nam Hải thời đó (nay là thành phố Quảng Châu) đã trở thành một thương cảng, người nước ngoài (người Phiên) ở lẫn lộn với người Hán, nên vua Tống sai quân đến “trấn giữ” và cho đặt đồn thuỷ quân để “tuần tra”, bảo đảm an ninh cho nơi này. Tác giả phụ chép lộ trình đường biển từ cửa biển Quảng Châu sang Ấn Độ Dương.
Các học giả Trung Quốc đã ghép hai lý do đó với nhau để biến lộ trình đường biển thành tuyến “tuần tra” của thuỷ quân Trung Quốc và giải thích địa danh “Cửu Nhũ Loa Châu” trên tuyến đường này là “quần đảo Tây Sa” để từ đó nói rằng “Trung Quốc đã phái thuỷ quân tuần tiễu quần đảo Tây Sa bắt đầu từ đời Tống ”. Cách giải thích đó đưa đến hai điều phi lý:
– Nếu bảo lộ trình từ cửa biển Quảng Châu đi Ấn Độ Dương là đường “tuần tiễu” của thuỷ quân Trung Quốc, thì đoạn đường từ “Cửu Nhũ Loa Châu” sang Ấn Độ Dương cũng đều thuộc phạm vi “tuần tiễu” của thuỷ quân Trung Quốc và các nước “Đại Thực” (Ả Rập), “Sư Tử” (Sri-Lanka), “Thiên Trúc” (Ấn Độ) cũng đều trở thành lãnh thổ Trung Quốc cả sao?
Nếu bảo “Cửu Nhũ Loa Châu” là “quần đảo Tây Sa” thì theo lộ trình, từ đây đi ba ngày nữa về phía Tây Nam, nơi đến đâu có còn là “Bất Lao Sơn” (Cù Lao Chàm) mà sẽ là ven biển cực Nam Trung Bộ ngày nay. Bởi “Tây Sa” hầu như nằm trên cùng một vĩ tuyến với Cù Lao Chàm, theo hướng Đông Tây.
Gán ghép câu chữ, khoác địa danh nơi này cho nơi kia để sửa lại ý của người xưa, làm sai lạc sự thật lịch sử sao còn có giá trị là “bằng chứng” chứng minh chủ quyền?
Sự kiện viên tướng nhà Nguyên Sử Bật đi qua các đảo Nam Hải trên đường đi xuống Gia-Va năm 1293, theo cách nói của học giả Trung Quốc.
Kỳ thật, đây là cuộc hành quân của quân Nguyên đi đánh Gia-Va năm 1293, Nguyên Sử chép, Vua Nguyên (Hu-bi-lai) phán rằng: “Yeheimishi (tên viên tướng Mông Cổ) thông thạo đường biển lo mọi việc về biển. Còn việc binh thì giao cho Sử Bật. Cho Bật giữ chức Phúc Kiến đẳng sứ Hành trung như tỉnh, Bình chương chính sự, thống lĩnh quân xuất chinh” (quyển 17, tờ 61).
Nguyên Sử cho biết “Tháng 12 Bật mang 5000 quân, hội chư quân, xuất phát từ Tuyền Châu (cửa biển miền Nam Phúc Kiến), gió to sóng cả, thuyền chòng chành, quân sĩ mấy ngày không ăn được, qua Thất Châu Dương, Vạn Lý Thạch Đường, đến (hải) giới Giao Chỉ, Chiêm Thành (vùng biển ngoài khơi Quảng Nam-Đà Nẵng ngày nay).
Tháng giêng năm sau (1923) đến đảo Đông Đổng, Tây Đổng, Ngưu Kỳ Dữ, (vùng biển Cù lao Thù-Hòn Hải ngày nay) đi vào đại dương mênh mông, đóng quân tại các đảo Ganlanyn, Kalimata, Goulan (các đảo ngoài khơi Gia-Va) đẵn gỗ đóng xuống để đi vào (Gia-Va)…”.
Nguyên sử còn cho biết sau cuộc chiến, khi trở về Bật đã bị hàng tướng Gia-Va “làm phản” Bật phải “chặn phía sau, vừa đánh vừa đi, 300 dặm mới lên được thuyền (loại thuyền lớn) đi 68 ngày mới về đến Tuyền Châu, quân sĩ chết 3000 người” và chính vì vậy Bật đã bị phạt “đánh 17 trượng, tịch thu một phần ba gia sản” (quyển 162, tờ 7a, 7b).
Cuộc hành quân xâm lược như thế sao có thể giải thích và hiểu là cuộc “tuần tiễu” của thuỷ quân đời Nguyên ở Nam Hải?
Sự kiện viên phó tướng Quảng Đông Ngô Thăng đi tuần khoảng năm 1710-1712 chép trong Tuyền Châu phủ chí (1780), cũng vậy.
Phủ chí chép rằng, sau khi nhậm chức ở Quỳnh Châu, Ngô Thăng đã có những cuộc tuần tiễu “từ Quỳnh Nhai qua Đồng Cổ, qua Thất Châu Dương, tứ Canh Sa, vòng quanh 3000 dặm, đích thân đi tuần, địa phương yên ổn”. (quyển 56, tờ 43a-43b).
Căn cứ vào địa danh chép trên tuyến đường tuần tiễu thì cuộc tuần tiễu của Ngô Thăng chỉ diễn ra chung quanh đảo Hải Nam. Bởi “Quỳnh Nhai” là thủ phủ Phủ Quỳnh Châu, phía Bắc đảo; “Đồng Cổ” là dải núi (cao 339 mét) ở Mũi Đồng Cổ, Đông Nam đảo; “Tứ Canh Sa” là bãi cát phía Tây đảo. Thất Châu Dương là vùng biển các đảo nằm gần và ở phía Đông Nam đảo Hải Nam.
Cuộc tuần tiễu chung quanh đảo Hải Nam sao có thể giải thích và hiểu là cuộc tuần tiễu quần đảo “Tây Sa”?
3. Ba là, về việc đo đạc thiên văn của Quách Thủ Kính năm 1279.
Nguyên Sử chép Quách Thủ Kính tiến hành đo đạch thiên văn “bốn biển” năm 1279 theo lệnh của vua Nguyên (quyển 48 tờ 7a, 7b).
Các học giả Trung Quốc căn cứ vào số độ đo được ở “Nam Hải” (15o Bắc Cực, tương đương vĩ độ Bắc ngày nay) để giải thích rằng, điểm đo đạc thiên văn của Quách Thủ Kính ở “Nam Hải chính là trên quần đảo Tây Sa ngày nay để rồi coi đó là “hành động hành sử chủ quyền của chính phủ Trung Quốc” và “cương vực đời Nguyên bao gồm cả các đảo Nam Hải”.
Nguyên Sử cũng cho biết, việc đo đạc thiên văn do Quách Thủ Kính tiến hành mang tính chất nghiên cứu khoa học, tìm hiểu vận động của vũ trụ (mặt trời, mặt trăng, các vì sao) để “làm lịch mới” (quyển 164, tờ 4b-5a).
Với tính chất như vậy và được tiến hành trên phạm vi rộng, vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ Trung Quốc thời đó, nên được chép là “trắc nghiệm bốn biển”. Từ ngữ “bốn biển” người Trung Quốc sử dụng với nghĩa như từ ngữ “thế giới” ngày nay. Cũng vì lẽ đó, người ta thấy 27 nơi tiến hành đo đạc, có cả “Cao Ly”, nay là Triều Tiên, “Thiết Lặc”, vùng đất đến nay thuộc Sibia, Liên Bang Nga, “Bắc Hải”, nay là Bắc Băng Dương, “Nam Hải” nay là biển Nam Trung Hoa.
Nếu hiểu “Nam Hải” thời đó nằm trong “cương vực đời Nguyên”, thì Triều Tiên, Si-bia, Bắc Băng Dương cũng thuộc “cương vực đời Nguyên cả sao? Biết rằng, cương vực đời Nguyên chép trong Nguyên Sử và thể hiện trên bản đồ đời Nguyên (Quảng dư đồ của Chu Tư Bản) phía Nam chỉ đến đảo Hải Nam, phía Bắc không quá sa mạc Gô-bi.
4. Bốn là, việc chính phủ Trung Quốc kháng nghị người Đức thăm dò “các đảo Nam Hải” năm 1883.
Các học giả Trung Quốc không đưa ra bất kỳ bằng chứng nào để chứng minh hành động này. Song, nhiều nguồn thông tin mà nay còn thấy cho biết công việc thăm dò, đo đạc của người Đức ở biển Nam Trung Hoa trong những năm 1881-1884 tiến hành thuận lợi và tài liệu thu được trong cuộc thăm dò đã được biên soạn thành sách.
Một bài báo đăng trên Tạp chí Phương Đông năm 1910 cho biết, hơn 10 năm trước tác giả đã có trong tay tập tài liệu điều tra biển Nam Hải của một người Đức, trong đó quần đảo “Tây Sa” được ghi chép tỉ mỉ mà ông ta đã dịch ra tiếng Trung Quốc. Ông nói, người Đức này đã đi từ Nam lên Bắc, từ Tây sang Đông đo đạc vùng biển này để lập bản đồ hàng hải.
Theo Thẩm Bằng Phi, trong báo cáo về cuộc điều tra quần đảo Tây Sa năm 1928, năm 1883 Chính phủ Đức tiến hành đo đạc quần đảo Paracels. Tài liệu thu thập được đã được E.D. Existence và P.W. Position biên soạn thành tài liệu năm 1884.
Trong một tài liệu nghiên cứu về quần đảo Paracels của Phủ Toàn quyền Đông Dương năm 1921 ghi nhận rằng: “Người Đức từ năm 1881 đến 1884 đã tiến hành nghiên cứu thuỷ học một cách kỹ lưỡng các đảo này” và “họ thường tiến hành ở hầu hết các vùng biển Trung Hoa (Hải Nam, Bắc Hải, Vi Châu) cho đến tận Áo Môn và Phúc Châu” .
Các nguồn tư liệu thông tin trên chứng minh người Đức đo đạc vẽ bản đồ các quần đảo ở Biển Đông không hề gặp bất kỳ cản trờ nào và những công trình nghiên cứu, đo đạc của họ được hoàn tất và công bố.
Như vậy, câu chuyện Chính phủ Trung Quốc kháng nghị người Đức năm 1883 là điều rất đáng nghi ngờ (?). Dù việc này có thật cũng vô hiệu. Vì các quần đảo ở Biển Đông không hề được đặt dưới chủ quyền của Trung Quốc, Trung Quốc không có tư cách đưa ra bất kỳ lời kháng nghị nào.
5. Năm là, chính quyền địa phương Trung Quốc cứu giúp tầu thuyền nước ngoài lâm nạn.
Về sự kiện này, các học giả Trung Quốc dẫn hai văn bản đời Càn Long năm thứ 20 (1755) và năm thứ 27 (1762) chép việc tàu thuyền nước ngoài bị đắm ở “Cửu Châu Dương (thuộc) Vạn Châu” và ở “Thất Châu Dương”, Chính phủ nhà Thanh lệnh cho quan chức địa phương chu cấp cho người sống sót về nước.
Như trên đề cập, “Thất Châu Dương” là tên chỉ vùng biển kế cận đảo Hải Nam về phía Đông Nam và “Cửu Châu Dương” đã được tác giả bộ sách Lịch Đại dư địa duyên cách hiểm yếu đồ (1879) ghi chú là “Thất Châu Dương ngày nay”.
Điều đó nói lên, cả hai vụ đắm tàu đều xảy ra ở vùng biển kế cận đảo Hải Nam, không phải là “vùng quần đảo Tây Sa”.
6. Sáu là, các đảo Nam Hải được vẽ vào bản đồ Trung Quốc.
Các học giả dẫn 9 bản đồ và chia làm hai loại. Một loại là “bản đồ Minh, Thanh” (tức bản đồ Trung Quốc) có vẽ các đảo Hải Nam. Một loại khác là “bản đồ Minh Thanh và các nước Phiên thuộc” (tức bản đồ Trung Quốc và các nước trong khu vực) có vẽ các đảo Nam Hải. Loại thứ nhất, các học giả Trung Quốc dẫn 2 bản đồ gồm Thanh hội phủ, châu, huyện, sảnh tổng đồ (1800), nói là trên đó có vẽ “Nam Áo Khí”, “Vạn lý Trường Sa”, “Vạn lý Thạch Đường”, “Thất Dương Châu” và giải thích 4 địa danh này là các quần đảo “Đông Sa”, “Trung Sa”, “Nam Sa” và “Tây Sa”; Trực tỉnh hải dương tổng đồ trong Dương phòng tập yếu (1838) nói là trên đó có vẽ “Vạn Lý Trường Sa” và giải thích từ ngữ đó chỉ chung các đảo Nam Hải; Quảng Đông dương đồ cũng trong Dương phòng tập yếu, nói là trên đó vẽ “Cửu Nhũ Loa Châu” và giải thích đó là quần đảo Tây Sa”.
Loại thứ 2, tác giả dẫn 10 bản đồ bao gồm Trịnh Hoà hàng hải đồ (1433); Vũ bị bí thư địa lợi phụ đồ (1637); Đại Thanh Trung ngoại thiên hạ toàn đồ (1709), Thanh trực tỉnh phân đồ (1724), Hoàng Thanh các trực tỉnh phân đồ (1755); Đại Thanh vạn niên nhất thống thiên hạ toàn đồ (1767); Đại Thanh vạn niên nhất thống toàn đồ (sau 1767); Đại Thanh vạn niên nhất thống địa lý toàn đồ (1810); Cổ Kim dư địa toàn đồ (1895) và nói rằng các đảo Nam Hải đã được vẽ vào các bản đồ này.
Đối với loại bản đồ thứ nhất, người ta có thể đặt câu hỏi là liệu Thanh hội, phủ, châu, huyện, sảnh tổng đồ có vẽ các địa danh mà các học giả Trung Quốc đề cập hay không, vì những bản đồ có tiêu đề tương tự mà người ta thấy như Hoàng triều phủ, sảnh, châu, huyện toàn đồ (1856), Hoàng triều trực tỉnh, phủ, sảnh, châu, huyện toàn đồ (1862) không thấy vẽ các địa danh nói trên. Dù bản đồ học giả Trung Quốc nói đến có vẻ các địa danh đó đi nữa cũng không có giá trị chứng minh chủ quyền. Bởi bản đồ này do học giả (Hiểu Phong) vẽ. Theo Luật pháp quốc tế, bản đồ nếu không được đính kèm theo một văn bản pháp lý sẽ không có giá trị chứng minh chủ quyền . Đó là chưa kể các địa danh người Trung Quốc xưa dùng để chỉ các quần đảo ở Biển Nam Trung Hoa đã bị giải thích một cách tuỳ tiện. Bãi ngầm lớn nằm giữa biển Nam Trung Hoa, Phương Tây gọi là Macclessfield Bank còn nằm sâu dưới mặt nước vài chục mét được giải thích là một “quần đảo” và gán cho nó cái tên “Vạn Lý Trường Sa”. “Thất Châu Dương” là vùng biển kế cận đảo Hải Nam về phía Đông Nam lại giải thích là “quần đảo Tây Sa”…
“Vạn lý Trường Sa” trên “Trực tỉnh hải dương tổng đồ” (Dương phòng tập yếu) cũng không thể giải thích là “lãnh thổ” Trung Quốc. Vì trên bản đồ này, ngoài “Vạn Lý Trường Sa” còn vẽ các nơi khác nhau như “Vùng đất Hà Lan, Hồng Mao (Anh) đến buôn bán” (đảo Boóc-nê-ô ngày nay), “Tiểu Lưu Cầu”, “Đại Lưu Cầu” (nay là quần đảo Ryu-kyu của Nhật Bản), “Đối Mã” (nay là đảo Tsuma của Nhật Bản). Nếu “Vạn Lý Trường Sa” được giải thích là “lãnh thổ Trung Quốc” thì các vùng đất khác đề cập ở trên có là “lãnh thổ” Trung Quốc không?
“Cửu Nhũ Loa Châu” trên Quảng Đông dương đồ (Dương phòng tập yếu) thì đã rõ. Trên bản đồ này, ký hiệu “Cửu Nhũ Loa Châu” được vẽ là hình núi cao (3 chóp nón) như ký hiệu “Lê Đầu Sơn”, “Nam Bành” cạnh đó mà hai nơi này người ta đã tìm thấy trên bản đồ phòng thủ biển trong Quảng Đông thông chí của Nguyễn Nguyên (1822) là những đảo ven bờ.
Đối với bản đồ thuộc loại thứ 2 cũng đã rõ. Trên một bản đồ vẽ cả Trung Quốc và các nước trong khu vực mà học giả Trung Quốc gọi là “Bản đồ Minh Thanh và các nước Phiên thuộc” thì lấy gì làm chuẩn để phân biệt đâu là lãnh thổ Trung Quốc, đâu không thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Nếu “Các đảo Nam Hải” vẽ trên bản đồ đó là “lãnh thổ” Trung Quốc thì các nước trong khu vực có là “lãnh thổ” Trung Quốc không?
Biết rằng, các quần đảo ở biển Nam Trung Hoa đã được các học giả Trung Quốc thời xưa gọi là “Trường Sa”, “Thạch Đường” và vẽ trên các bản đồ khu vực Đông Nam Á mang tiêu đề Đông Nam Hải dư đồ hay Đông Nam Dương các quốc duyên cách đồ”
Điều không khỏi ngạc nhiên là có hàng loạt sách địa chí và bản đồ Trung Quốc, kế cả của quốc gia (nhà nước biên soạn) và thông thường (học giả biên soạn) lại không thấy các học giả Trung Quốc viện dẫn để chứng minh chủ quyền đối với các quần đảo ở biển Nam Trung Hoa.
Đơn giản là bởi các sách địa chí và bản đồ đó đều chép hoặc vẽ phần cực Nam lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam, chứ không bao gồm bất kỳ quần đảo nào ở biển Nam Trung Hoa.
Sách địa chí chính thức có Nguyên phong cửu vực chí (Tống), Đại Nguyên nhất thống chí (1294), Đại Minh nhất thống chí (1461), Đại Thanh nhất thống chí (1842). Bản đồ chính thức có Hoàng dư toàn lãm đồ (Hoàng Thanh nội phủ địa đồ) (1761), Hoàng dư toàn đồ (trong Khâm định Đại Thanh hội điển đồ) (1894).
Sách địa chí thông thường (do học giả soạn) thường được nói đến là Thái bình hoàn vũ ký của Nhạc sử, Dư địa kỷ thắng của Vương Tượng Chi đời Tống, Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư của Cố Viên Vũ, Độc sử phương dư kỷ yếu của Cố Tổ Vũ đời Thanh.
Bản đồ thông thường có Vũ tích đồ, Hoa Di đồ, bản đồ Trung Quốc đời Tống khắc đá năm 1137 (phụ lục II) (Bảo tàng Tây An, Thiên Tây), Địa lý đồ bản đồ Trung Quốc đời Tống, khắc đá năm 1247 (Tô Châu, Giang Tô) , Dư địa đồ của Chu Tư Bản đời Nguyên, trong Quảng dư đồ của La Hồng Tiên, (đời Minh), Nguyên lộ, phủ, châu, huyện đồ trong Kim cổ dư địa đồ của Ngô Quốc Phụ (1638), Hoàng Minh đại thống nhất Tổng đồ trong Hoàng Minh chức phương địa đồ của Trần Tổ Thụ (1628-1634), Hoàng triều phủ, sảnh, châu, huyện toàn đồ của Trình Tổ Khánh (1856), Đại Thanh trực tỉnh toàn đồ (khuyết danh) (1862), Hoàng Triều nhất thống dư địa toàn đồ (khuyết danh) (1894), Hoàng Triều trực tỉnh đồ (1905, tái bản 1910), Đại Thanh đế quốc toàn đồ (1905, tái bản 1910) (Phụ lục II).
Trong đó bản đồ năm 1894 ghi rõ “Cực Nam” lãnh thổ Trung Quốc là “Nhai Châu, phủ Quỳnh Châu, Quảng Đông, điểm Bắc Cực 18 độ 13 phút”.
Sự thật là như vậy. Một vùng đất mà không được chép trong sách địa chí và thể hiện trên bản đồ từ đời Tống (960-1279) đến đời Thanh (1616-1911), kể cả chính thức và không chính thức, sao có thể là “lãnh thổ” Trung Quốc?
Các quần đảo ở Biển Nam Trung Hoa không được chép trong sách địa chí và thể hiện trên bản đồ Trung Quốc, nguyên do cũng dễ hiểu. Bởi như phần trên đã đề cập, các triều đại Phong kiến Trung Quốc, cho đến trước năm 1909 không có bất kỳ đòi hỏi nào về chủ quyền đối với các đảo Nam Hải và không có bất kỳ hành động nào nhằm thể hiện quyền lực của mình đối với các quần đảo này.
Theo luật pháp Quốc tế, để có một bộ phận lãnh thổ được coi là thuộc một quốc gia nào đó, điều kiện pháp lý cần thiết là lãnh thổ đó phải được đặt dưới chủ quyền quốc gia đó và giới hạn về lãnh thổ cần được xác định bằng việc mà quyền lực của Nhà nước được thực hiện trong giới hạn đó …
Thật vậy, cho đến khi Trung Quốc đưa ra yêu sách đối với các quần đảo ở Biển Nam Trung Hoa vào nửa đầu thế kỷ XX các quần đảo này chưa bao giờ được đặt dưới chủ quyền của Trung Quốc và quyền lực của Nhà nước Trung Quốc chưa bao giờ được thực hiện trên các quần đảo này.
Song vì sao, ngày nay Trung Quốc khăng khăng nói rằng các quần đảo ở Biển Nam Trung Hoa là lãnh thổ từ ngàn xưa? Vấn đề là ở chỗ các học giả Trung Quốc đã đưa ra những thông tin sai lạc như được đề cập trong bài viết này. Những thông tin sai lạc đó, trên thực tế đã là cho dư luận trong và ngoài Trung Quốc hiểu sai về vấn đề chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo ở biển “Nam Trung Hoa”. Nếu như người Trung Quốc hiểu rõ về lịch sử, hiểu rằng chỉ từ nửa đầu thế kỷ XX, nhà chức trách Trung Quốc mới đưa ra yêu sách về lãnh thổ đối với các quần đảo ở vùng biển này khi các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã là lãnh thổ của Việt Nam, thì cách xử sự của họ có thể sẽ khác nếu như chuẩn tắc trong quan hệ quốc tế được tôn trọng.
Trình bày rõ sự thật về tài liệu lịch sử của Trung Quốc liên quan đến biển “Nam Trung Hoa” trong bài viết này, tác giả hy vọng có thể cung cấp cho bạn đọc những nguồn thông tin chân thực trong việc tìm hiểu luận thuyết của các học giả Trung Quốc đối với các quần đảo ở biển Nam Trung Hoa liệu có phù hợp với sự thật lịch sử, có sức thuyết phục và đứng vững được hay không.
Tài liệu tham khảo
1. Sử Lệ Tổ “Các đảo Nam Hải từ xưa đến nay là lãnh thổ Trung Quốc” Quang Minh nhật báo, 24/11/1975; Trương Hồng Tăng, “Xem xét chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa từ góc độ Luật pháp quốc tế”, tạp chí Hồng Kỳ số 4/1980; Hàn Chấn Hoa, Lâm Kim Chi, Ngô Phượng Bân, “Hội biên sử liệu các đảo Nam Hải nước ta”, xuất bản tại Bắc Kinh, 1988; Phan Thạch Anh, “Quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc-căn cứ lịch sử ngược dòng 2000 năm”, tạp chí Window (HongKong), 3/9/1993.
2. Địa danh này ngờ là chỉ đảo Boóc-nê-ô hoặc đảo Gia-Va ngày nay.
3. ĐườngThư, quyển 7, tờ 7a; Thái Bình hoàn vũ ký (Tống), quyển 169, tờ 11a-11b; Dư địa kỷ thắng (1221), quyển 124, tờ 2b; Quảng Đông Thông chí (1731), quyển 5, tờ 74a-75a.
4. Hàn Chấn Hoa, sách đã dẫn trang 7 và 38
5. Hàn Chấn Hoa, sách đã dẫn trang 9 và 47
6. Hàn Chân Hoa, sách đã dẫn, trang 133-136
7. Trung Quốc Nam Hải chư đảo văn hiến vựng biên chi bát, Đài Loan học sinh thư cục, 1974, trang 22-33.
8. Gouverment General del’Indochine Airection des Affaires Politique et Indigenes-Note, 6 Mai 1921, phụ lục tài liệu nghiên cứu của giáo sư Monique Chemillier Gendrean nhan đề Aris juridique relatif au statut international des archipels de la mer de chine (Paracels-Spratlys) (1989).
9. Bộ sưu tập, trang 68-70
10. Hàn Chấn Hoa, sách đã dẫn, trang 8-9, 84-89
11. Max Huber, Sentence arbitrate rendue la 4 avril 1928, par Max Huber, entre les Etats-Unis et les Pays-Bas, dans le litige relatif a la souveraineté sur l’ile de Palmas-RGDIP-Tome IX, 1935, trang 181.
12. Trong Quảng Dư đồ (1562), Cổ kim đồ thư biên (1585) Vũ bị chí (1628), Hoàng Minh chức phương địa đồ (1635), Địa đồ tổng yếu (1643) Độc phương dư kỷ yếu (1678), Hải quốc đồ chí (1842), Dương phòng tập yếu (1847).
13. Vương Dung, Trung Quốc địa lý sử cương, Bắc Kinh, 1958, phần bản đồ.
14. Max Huber, tài liệu đã dẫn, trang 163, 164.
Nguồn: hoangsa.org