Bát cơm Việt Nam đã vỡ
James Borton
‘Nền văn minh nước’ đang bị đe dọa bởi biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng cao, ô nhiễm công nghiệp và các đập thủy điện ở thượng nguồn.
Trong nhiều thế hệ nông dân và gia đình họ thu hoạch lúa ở vùng đồng bằng sông Cửu Long màu mỡ đã dựa vào nguồn cá dồi dào của dòng sông và sản xuất lúa gạo để sinh sống.
Đối với hàng triệu người, nhịp sống là dòng chảy không ngừng của dòng sông. Những người sống dọc theo sông Mê Kông và các nhánh đồng bằng của nó đã công nhận “nền văn minh nước” của họ là tài sản thiên nhiên cần được bảo tồn và duy trì cho các thế hệ tương lai.
Nhưng các chuyên gia và nông dân đều biết rằng mạng lưới sông rạch phức tạp đang bị đe dọa nghiêm trọng do biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm công nghiệp và tác động bất lợi của các đập thủy điện ở thượng nguồn.
Trên toàn vùng hạ lưu sông Mê Kông, nhiệt độ tăng cao và những thay đổi về cường độ mưa, dòng chảy sông, lũ lụt và hạn hán đang tàn phá mùa màng, thủy sản và nhà cửa. Từng được ca ngợi là kho báu đa dạng sinh học và vựa lúa của Việt Nam, ngày càng nhiều tỉnh phải hứng chịu những đợt hạn hán tàn khốc lịch sử và đối mặt với những thách thức thực sự về an ninh lương thực.
Sông Mê Kông khởi nguồn từ cao nguyên Tây Tạng và chảy gần 4.200 km trước khi chia thành Cửu Long (“Rồng chín đuôi”) và đổ ra Biển Đông. Tại đồng bằng sông Cửu Long, gần 2 triệu người ở 6 tỉnh ven biển đang phải đối mặt với tình trạng khan hiếm nước ngọt trầm trọng.
Mực nước thấp kỷ lục ở hầu hết các tuyến đường thủy và sông ngòi đang gây ra tình trạng xâm nhập mặn vào đất liền, cách các cửa sông tới 90 km, hủy hoại mùa màng và ô nhiễm nguồn nước. Đối với quá nhiều nông dân trồng lúa, lời kêu gọi “quá nhiều nước” của họ đã không được lắng nghe; và bây giờ thường xuyên hơn, tiếng kêu “quá ít nước”.
Các nhà nghiên cứu nông nghiệp cảnh báo rằng trừ khi các biện pháp khẩn cấp được thực hiện, toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long, nơi sinh sống của hơn 20 triệu người, có thể gần như chìm trong nước trong vòng một thế hệ.
Rafael Schmitt, nhà khoa học cấp cao tại Dự án Vốn tự nhiên của Đại học Stanford, cho biết: “Nếu không hành động nhanh chóng, đồng bằng và sinh kế của nó có thể trở thành nạn nhân của sự thay đổi môi trường toàn cầu và khu vực”.
Đồng bằng sông Cửu Long đặc biệt dễ bị tổn thương trước các hiểm họa khí hậu. Khi biến đổi khí hậu đặt ra những mối đe dọa hiện hữu đối với các hệ sinh thái mỏng manh ở đồng bằng, các nghiên cứu dự đoán nhiệt độ không khí và nước biển sẽ tăng lên.
Theo Bộ Nông nghiệp Việt Nam, vùng đồng bằng này đang mất khoảng 500 hắc ta đất mỗi năm do xói mòn. Ngoài ra, các hoạt động quản lý đất và nước không bền vững đang gây ô nhiễm sông và kênh rạch. Xâm nhập mặn đã tăng lên 4 gam/lít ở nhiều nơi, gấp 4 lần mức cho phép đối với hầu hết các loại cây trồng.
Bát cơm được xem lại
Khi bắt đầu chương trình cải cách “Đổi mới” vào năm 1986, giới lãnh đạo chính trị Việt Nam đã viện dẫn các kế hoạch quốc gia nhằm đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo và những khó khăn do Chiến tranh Việt Nam kéo dài. Phần trọng tâm của chiến lược mới đó là mở cửa ngành trồng lúa không chỉ để nuôi sống đất nước mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo lớn. Gạo rất quan trọng vì đây là thực phẩm chủ yếu của một nửa dân số thế giới.
Giờ đây, các nhà khoa học đã cung cấp bằng chứng cho thấy người Việt Nam có lẽ đang phải đối mặt với thách thức lớn nhất: biến đổi khí hậu với những cơn bão dữ dội, hạn hán và mất an ninh lương thực.
Tại Đồng bằng sông Cửu Long, nơi hơn 1/3 số gia đình có dưới nửa hắc ta đất lúa, Chính phủ đang khuyến khích mô hình “ruộng nhỏ, trang trại lớn” được điều phối bởi các doanh nghiệp nông nghiệp lớn hoặc các tập đoàn như Nông nghiệp Lộc Trời ( LTA) Nhóm sản phẩm. Hiện nay nông dân đang tham gia vào các hoạt động canh tác theo hợp đồng chiếm gần 10% diện tích trồng lúa ở một số tỉnh.
Đối với nhiều nông dân, mô hình mới này cung cấp một mạng lưới an toàn bền vững. Hệ thống của Lộc Trời bao gồm hơn 40.000 nông dân nhỏ và cho phép công ty giám sát từ hạt giống đến thu hoạch và vận chuyển mạng lưới 24 nhà máy nằm khắp vùng đồng bằng để sấy khô, xay xát, bảo quản và giao gạo.
Với công suất nổi tiếng hàng ngày gần 26.000 tấn lúa sấy, hơn 22.000 tấn xay xát và 1 triệu tấn tồn trữ gạo, LTA có thể đáp ứng khối lượng lớn các đơn hàng quốc tế ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Úc và dọc theo các quốc gia khác, cách nó đang giáo dục nông dân áp dụng các biện pháp sản xuất lúa gạo mới không lạm dụng phân bón và thuốc trừ sâu.
Một báo cáo gần đây do chính phủ công bố về chuyển đổi mô hình phát triển và quy hoạch tổng hợp tập trung vào sự thay đổi mô hình nông nghiệp và đánh giá tác động của Kế hoạch tổng hợp Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2021-2030.
Các nhà hoạch định chính sách của Hà Nội hiểu rất rõ những thách thức nghiêm trọng do biến đổi khí hậu, suy thoái kinh tế, thiếu lao động và nguồn nguyên liệu thô không đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu.
Báo cáo cũng nêu chi tiết tính cấp thiết của việc đầu tư vào vùng đồng bằng cũng như hợp tác và đối tác quốc tế nhằm giảm thiểu biến đổi khí hậu.
Giáo sư Vũ Thành Anh, nguyên trưởng khoa Đại học Fulbright Việt Nam, hiện là giảng viên cao cấp và trưởng nhóm báo cáo nghiên cứu, cho biết đại dịch Covid-19 đã tác động rất lớn đến tăng trưởng kinh tế địa phương nhưng Đồng bằng sông Cửu Long là một điểm sáng, với khu vực nông nghiệp tăng 3,4%.
Chính phủ trung ương đã có những hành động quyết liệt sau khi Đồng bằng sông Cửu Long chịu thiệt hại nặng nề khi hạn hán nghiêm trọng kết hợp với mực nước biển dâng cao vào cuối năm 2015 và 2016. Đến năm 2017, việc đưa ra Nghị quyết 120 đã nhấn mạnh vào phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu trong khu vực.
Chính sách quốc gia đã tạo điều kiện cho các hợp tác xã nông nghiệp phát triển bền vững và cho phép nông dân tập trung vào trồng cây ăn quả, vì diện tích trồng lúa kém hiệu quả có thể dễ dàng chuyển đổi sang trồng các loại trái cây và rau quả chịu hạn và mặn.
Ngoài ra, trong thập kỷ qua, khu vực này đã chứng kiến làn sóng di cư ổn định của người dân rời bỏ trang trại để tìm việc làm tại các khu vực thành thị, đặc biệt là ở Thành phố HCM. Các tỉnh đồng bằng có mức giảm dân số lớn nhất trong năm 2020 là Hậu Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang và Cà Mau.
Theo một bài báo đăng trên Mạng Báo chí Trái đất, nhiều khu vực trồng lúa kém hiệu quả đã được chuyển đổi sang trồng thêm các loại cây chịu mặn và chịu hạn như thanh long, dừa, sen, cau và dưa hấu.
Nhà sinh thái học đồng bằng sông Cửu Long Nguyễn Hữu Thiện cho biết: “Biến đổi khí hậu sẽ là tác động môi trường đáng kể nhất trong tương lai. Lũ lụt ngày càng thường xuyên; và cường độ, sau khi mực nước biển dâng, kết quả là các cơn bão nhiệt đới theo mùa sẽ gia tăng.”
Thủy điện đe dọa vùng đồng bằng
Sông Mê Kông chảy qua 5 quốc gia là Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan và Campuchia trước khi vào Việt Nam. Tất cả các quốc gia này đều coi thủy điện là yếu tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của họ.
Đến năm 2021, thượng nguồn sông Mê Kông có 141 đập đang hoạt động. Ngoài ra còn có 36 công trình nữa đang được xây dựng. Đến năm 2032, sẽ có tổng cộng 468 nhà máy thủy điện trên sông Mê Kông và các phụ lưu. Mặc dù hầu hết các nhà máy này không có ở Việt Nam nhưng chúng đang gây ảnh hưởng xấu đến điều kiện sống của hơn 20 triệu người dân ở vùng hạ lưu đồng bằng.
Dữ liệu đưa ra một bức tranh ảm đạm về tác động của các con đập và hệ sinh thái ở hạ lưu với sự suy giảm có hệ thống về đánh bắt cá và sản xuất lúa gạo. Sự sụt giảm tổng thể trong diện tích trồng lúa có liên quan trực tiếp đến việc không có nước lũ vốn đã thúc đẩy sự phát triển của lúa nổi, cây trồng đặc trưng của Đồng bằng sông Cửu Long.
Sự cân bằng giữa sông và biển đang thay đổi đáng kể. Hạn hán trong quá khứ và hiện tại ở vùng đồng bằng đã tàn phá nguồn cung cấp lương thực và làm gia tăng cuộc tranh luận gay gắt về mô hình địa chính trị “dòng chảy” ở thượng nguồn của Trung Quốc. Các con đập không chỉ ngăn nước lũ tràn vào vùng hạ lưu sông Mê Kông của Việt Nam mà còn ngăn dòng trầm tích nuôi dưỡng đất và cung cấp thức ăn cho cá.
Tiết lộ đầy đủ, tôi là người đồng sáng lập Diễn đàn Môi trường Mê Kông (MEF), một tổ chức phi chính phủ có trụ sở tại Cần Thơ, Việt Nam. Các chương trình tiếp cận cộng đồng và hội thảo định hướng khoa học công dân của chúng tôi giải quyết vô số vấn đề môi trường.
Trong một hội nghị chuyên đề do MEF điều phối trước đây, Philip Minderhoud và Sepehr Eslami Arab của Đại học Utrecht, thành viên nghiên cứu của Dự án tăng giảm, đã trình bày những phát hiện của họ sau sáu năm nghiên cứu cho thấy tỷ lệ xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long dưới 5% do biến đổi khí hậu, nhưng chủ yếu là do phát triển thủy điện.
Theo hai nhà nghiên cứu, nguồn cung trầm tích sông ngòi đã giảm gần 90% do các đập ở thượng nguồn. Các nghiên cứu của họ và các nghiên cứu khác nhấn mạnh rằng sự phát triển cơ sở hạ tầng thủy điện ở thượng nguồn tác động đến chế độ dòng chảy, vận chuyển trầm tích và chất dinh dưỡng, sự ổn định của đáy và bờ, năng suất cá, đa dạng sinh học và sinh học của lưu vực.
Sự suy giảm dòng trầm tích đến lòng sông và bờ sông đang gia tăng nhanh chóng vượt xa xu hướng khí hậu. Khi các con đập điều tiết dòng chảy sông Mê Kông và tắt nhịp lũ, hồ Tonlé Sap không còn có thể hoạt động như một hồ chứa giữ lũ lịch sử và do đó không thể cung cấp lượng nước cần thiết cho Đồng bằng sông Cửu Long.
Đồng thời, các kênh sâu hơn của đồng bằng mời gọi sự xâm nhập mặn ngày càng tăng do mực nước biển dâng và khuếch đại thủy triều. Thủy triều dâng lên sông Hậu, tràn qua đê và cuối cùng làm ngập trung tâm thành phố Cần Thơ. Hệ thống tự nhiên ngăn chặn lũ lụt đến vùng đồng bằng đang nhanh chóng bị thay đổi.
Các vùng đồng bằng ngập lũ có vai trò quan trọng đối với hệ sinh thái nông nghiệp và kinh tế xã hội của Đồng bằng sông Cửu Long vì chúng giúp giữ lũ tự nhiên và giảm lưu lượng đỉnh lũ trong mùa lũ.
Các nhà thủy văn học đồng ý rằng việc vận hành đập ảnh hưởng đến các dòng sông bằng cách phân phối lại dòng chảy và sự biến đổi giữa các năm. Trong khi sự khác biệt giữa những thay đổi do đập gây ra và do khí hậu đôi khi tỏ ra bất tiện, Tonlé Sap hiện đang ở trong tình trạng sụp đổ nghiêm trọng vì các con đập ở thượng nguồn của Trung Quốc.
Những năm xây dựng đập và hạn hán gia tăng do biến đổi khí hậu đã làm thay đổi không chỉ một trong những nghề cá nước ngọt giàu có nhất thế giới mà còn tác động đến những người sống ở hạ lưu vùng đồng bằng.
Brian Eyler, giám đốc Chương trình Đông Nam Á của Trung tâm Stimson và là tác giả cuốn Những ngày cuối cùng của sông Mê Kông hùng mạnh, qua dữ liệu vệ tinh cho thấy kỷ lục ngăn nước của Trung Quốc đã dẫn đến tình trạng hạn hán nghiêm trọng hơn nhiều ở các nước hạ nguồn.
Sự tập trung của Eyler vào một nghiên cứu do chính phủ Hoa Kỳ tài trợ do Eyes on Earth công bố nhấn mạnh rằng bằng chứng từ thước đo vật lý của sông Mê Kông và viễn thám xác nhận rằng hạn hán đang diễn ra là kết quả của chính sách quản lý nước của Trung Quốc.
Dữ liệu tiết lộ rằng từ năm 1992 đến năm 2019, các phép đo vệ tinh về “độ ẩm bề mặt” ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc cho thấy khu vực này thực sự có lượng mưa và tuyết tan trên mức trung bình một chút từ tháng 5 đến tháng 10 năm 2019.
Eyler nói: “Khi hạn hán xảy ra, Trung Quốc kiểm soát dòng chảy của sông một cách hiệu quả.
Tất cả dữ liệu gần đây vẽ nên một bức tranh đáng sợ về việc Trung Quốc hạn chế dòng nước chảy từ thượng nguồn sông Mê Kông. Nghiên cứu khoa học xác nhận rằng Trung Quốc có thể đã làm được nhiều việc để giảm bớt hạn hán và duy trì mực nước sông trên mức trung bình.
Nghiên cứu của Stimson tiết lộ một mô hình mang tính hệ thống của “chính sách chảy theo dòng sông” của Bắc Kinh, được hiểu đơn giản là: Nước không bao giờ được chia sẻ nếu không có Trung Quốc sử dụng trước hoặc trừ khi ai đó ở hạ lưu trả tiền cho nó. Hành động này được nhấn mạnh bằng việc Trung Quốc không ký bất kỳ hiệp ước quốc tế nào về các con sông xuyên biên giới của mình.
Trong một cuộc cạnh tranh địa chính trị, chính phủ Trung Quốc tin rằng nước sông Mê Kông là tài nguyên có chủ quyền chứ không phải là tài nguyên chung, khiến nhu cầu của các chính phủ ở hạ lưu nhằm bảo đảm khả năng tiếp cận tự do các nguồn tài nguyên nước quốc tế, bảo tồn đa dạng sinh học và an ninh lương thực gặp rủi ro. Chương trình ngoại giao nước của Bắc Kinh có nhiều thiếu sót vì các con đập làm suy yếu dòng chảy của sông và cho phép nước biển xâm nhập sâu hơn vào thượng nguồn.
Trong ba thập kỷ, Trung Quốc đã xây dựng các con đập trên thượng nguồn sông Mê Kông, khiến các quốc gia ở hạ lưu lo lắng rằng một ngày nào đó Trung Quốc có thể tắt vòi nước. Năm 2020, một đợt hạn hán kỷ lục đã xóa sổ mùa màng và gây ra cuộc khủng hoảng nhân đạo ở các vùng hạ lưu.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc tái khẳng định Trung Quốc đã vượt qua khó khăn và gia tăng dòng nước chảy từ sông Lancang để giúp các nước trên sông Mê Kông giảm nhẹ hạn hán, đồng thời cho rằng Trung Quốc và các nước láng giềng phải tin tưởng, giúp đỡ lẫn nhau để cùng nhau tiến lên. Tuy nhiên, đối với quá nhiều nước láng giềng ở vùng đồng bằng hạ lưu, hành vi của Trung Quốc tiếp tục làm trầm trọng thêm tình trạng hạn hán, gây ra sự sụt giảm sản lượng đánh bắt cá và sản lượng lúa gạo, cho thấy khoảng cách lớn giữa hành động và lời nói của Bắc Kinh.
- James Borton là thành viên cao cấp tại Viện Chính sách Đối ngoại thuộc Trường Nghiên cứu Quốc tế Cao cấp thuộc Đại học Johns Hopkins và là tác giả của Công văn từ Biển Đông: Điều hướng đến Điểm chung.
NTHF chuyển ngữ