Welcome to Nguyễn-Thái-Học Foundation   Click to listen highlighted text! Welcome to Nguyễn-Thái-Học Foundation

Bằng Cấp Thời VNCH Giá Trị Cỡ Nào?


Nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa là nền giáo dục ở các vùng do chế độ Việt Nam Cộng Hòa kiểm soát tại miền Nam Việt Nam từ 1955 tới 1975 (các vùng do Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam kiểm soát thì không áp dụng). Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng hòa gồm tiểu học, trung học và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương tới địa phương. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa quy định về việc cố gắng xây dựng nền giáo dục cơ bản mang tính bắt buộc và miễn phí, các trường đại học tự trị, và những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn.

Tại sao bằng đại học của Việt Nam Cộng Hòa có giá trị ở hơn 60 quốc gia trên khắp thế giới trước ngày 30 tháng 4 năm1975?

1. Nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa dựa trên giá trị cá nhân của từng em học sinh để phát huy, đào tạo và phát triển thành tài năng trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề.

2. Tuyệt đối tôn trọng tính tự do tư tưởng của các em học sinh ngay từ tuổi thiếu niên.

3. Lấy các giá trị nhân bản, dân tộc làm nền tảng để phát triển xã hội, xây dựng đất nước văn minh.

4. Ngay từ lớp 7 đến lớp 9 các em học sinh đã được làm quen với nghệ thuật và kỹ năng hùng biện để bảo vệ các quan điểm cá nhân độc lập của mình.

5. Anh ngữ tuy không phải là ngôn ngữ thứ hai nhưng số tiết học Anh ngữ rất cao. Rất nhiều học sinh lớp 11 và 12 hoàn toàn có thể đọc sách, tạp chí nước ngoài ngay từ nguyên bản.

6. Đến lớp 11 – 12, học sinh bắt đầu làm quen với môn triết học, được tiếp cận và tự do nghiên cứu tất cả các triết thuyết và tư tưởng của những nhà tư tưởng có ảnh hưởng quan trọng nhất của nhân loại và trên thế giới (Kể cả Các Mác – Ăn-ghen, Lê Nin, Mao Trạch Đông và thuyết cộng sản, chủ nghĩa xã hội) với tài liệu đầy đủ.

7. Từ lớp 6 đến lớp 9, học sinh đã làm quen với môn thuyết trình. Từ lớp 10 học sinh sẽ bắt đầu học về khoa hùng biện để khi lên đại học hoàn toàn có đủ khả năng trình bày, diễn thuyết trước đám đông về một đề tài khoa học – xã hội nào đó của mình một cách chặt chẽ, thuyết phục.

8. Học xong trung học, tất cả các học sinh đều có ý thức về nhân quyền, dân quyền, quyền ứng cử, quyền tranh cử và luôn đặt Tổ quốc – Trách nhiệm – Danh dự lên hàng đầu.

Thời Việt Nam Cộng Hòa lương giáo viên, bác sĩ, y tá thuộc loại cao nhất. Giáo dục được nâng lên tầm Quốc Sách để xây dựng thành chiến lược phát triển quốc gia.

Sau năm 1975 Việt Nam là lò đào tạo Tiến sĩ thuộc dạng khủng trên thế giới. Hiện nay trên phạm vi toàn thế giới, Việt Nam đứng thứ hai trên thế giới về số lượng tiến sĩ. Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2016 Việt Nam có 24.000 tiến sĩ trong đó có 15.000 tiến sĩ làm việc trong các trường đại học cao đẳng trên khắp cả nước. Theo chỉ tiêu hàng năm của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đề tài về Đào tạo Tiến sĩ có lẽ hiện nay số tiến sĩ Việt Nam đã lên đến 30.000 vị trên thế giới khảo sát tạp chí Forbes. Năm 2014, Hoa Kỳ là quốc gia có tiến sĩ cao nhất với 67.440 vị, Đức có 28.147 vị, Anh Quốc thì 25.028 vị và thứ tư là Ấn Độ với 24.300 vị. Nhật Bản đứng thứ năm nhưng chỉ có 16.039 vị kế đến là Pháp với 13.729 vị tiến sĩ.

Các quốc gia này đều có những tiến sĩ đạt các giải thưởng khoa học danh giá trên thế giới và họ có những đóng góp thiết thực không chỉ cho quốc gia của họ mà cho cả thế giới nữa. Một vài con số tham khảo cho thấy Việt Nam là một lò đào tạo Tiến sĩ thuộc dạng khủng. Quân bình mỗi ngày có thêm một người Thăng học vị tiến sĩ và gần 10 người đổ thạc sĩ. Theo đó năm 2016, 2017 tổng số thạc sĩ và tiến sĩ tốt nghiệp là 35.918 trong đó có 1.230 tiến sĩ. Đến năm 2018 số người tốt nghiệp sau đại học tăng lên 38.021 người trong đó có 1.545 tiến sĩ, số liệu này không tính các trường thuộc khối quốc phòng, an ninh quốc tế hoặc những ai lấy bằng tiến sĩ ở nước ngoài.

Dân miền Nam mình ngày xưa, những ai bây giờ chừng 55 tuổi trở lên chắc đều nhớ rõ cách tổ chức độc đáo ở các lớp bậc tiểu học cách đây hơn bốn thập niên. Hồi đó, cách gọi tên các lớp học ngược lại với bây giờ theo thứ tự từ lớn đến nhỏ. Lớp năm là lớp 1 ngày nay rồi đến lớp tư, lớp ba, lớp nhì trên cùng là lớp nhất. Lớp năm tức là lớp thấp nhất, thường do các thầy cô giỏi nhất hoặc các cao niên dồi dào kinh nghiệm nhất để phụ trách. Sở dĩ như vậy là vì bậc học này được xem là vô cùng quan trọng. Dạy học trò từ chỗ chưa biết gì đến chỗ biết đọc, biết viết, biết những kiến thức cơ bản đầu tiên, nghĩa là biến từ chỗ không có gì đến chỗ bắt đầu có.

Học trò không phân biệt giàu nghèo, khi đến lớp chỉ được dùng một thứ viết duy nhất đó là cây viết ngòi lá tre. Gọi là lá tre bởi vì cây viết này có cái ngòi có thể tháo rời ra được giống hình Lá Tre nho nhỏ. Khi viết thì chấm vào bình mực, bình mực thường là mực tím có một cái khoen nơi nắp để móc vào ngón tay cho nó tiện. Thân bình bên trong gắn liền với một ống nhựa hình quặn dưới nhỏ trên lớn để mực khỏi sánh ra theo nhịp bước của học trò. Khi vào lớp thì học trò đặt bình mực vào một cái lỗ tròn vừa vặn khoét sẵn trên bàn học cho khỏi rớt.

Bút bi thời đó cũng đã có gọi là bút nguyên tử, đây là thứ đầy ma lực hấp dẫn đối với học trò ngày ấy nhưng bị triệt để cấm dùng. Các thầy cô quan niệm rằng, rèn chữ là rèn người nên nếu cho phép học trò lớp nhỏ sử dụng sớm bút bi thì sợ là khi lớn lên chúng sẽ dễ sinh ra lười biến và cẩu thả trong tính cách.  Mỗi lớp học chỉ có một thầy hoặc một cô duy nhất để phụ trách tất cả các môn. Thầy gọi trò bằng con và trò cũng xưng con chứ không xưng em với thầy. Về việc dạy dỗ, không thầy nào dạy giống thầy nào nhưng mục tiêu kiến thức sau khi học xong các cấp lớp phải bảo đảm như nhau. Thí dụ như, học xong lớp năm thì phải đọc thông viết thạo nắm vững hai phép toán cộng trừ, lớp tư thì bắt đầu tập làm văn, thuộc bản Cửu chương để làm các bài toán nhân chia.

Sách giáo khoa cũng không nhất thiết phải thống nhất nên không có lớp học nào giống lớp nào về nội dung cụ thể của từng bài giảng. Cứ mỗi năm lại có các ban tu Thư có thể là do tư nhân tổ chức, họ soạn ra những sách giáo khoa mới giấy trắng tinh rồi đem phân phối cấp các nhà sách lớn nhỏ từ thành thị cho đến nông thôn. Các thầy cô được trọn quyền lựa chọn các sách giáo khoa ấy để làm tài liệu giảng dạy miển sao hợp với nội dung chung của Bộ giáo dục là được. Tuyệt nhiên không thấy có chuyện dạy them, học thêm ở bật học này nên khi mùa hè đến học trò cứ vui chơi thoải mái suốt cả mấy tháng dài.

Các môn học ngày trước đại khái cũng giống như bây giờ, chỉ có các bài học thuộc lòng trong sách Việt văn theo tôi là ấn tượng hơn nhiều. Đó là những bài thơ những bài văn vần dễ nhớ nhưng rất sâu sắc về tình cảm gia đình, tình yêu thương loài vật, tình cảm bạn bè, tình nhân loại, đặc biệt là lòng tự tôn dân tộc Việt Nam.

Tôi còn nhớ rõ trong sách Tân Việt văn lớp 5 có bài học thuộc lòng thật hay về bóng đá mà hồi đó gọi bằng một từ rất hoa mỹ là túc cầu.

Trận Cầu Quốc Tế

Chiều chưa ngã, nắng còn gay gắt lắm
Hai đội cầu hăng hái tiến ra sân
Tiếng Hoan hô thêm dũng mảnh bội phần
Để cổ Võ cho trận cầu quốc tế.

Đoàn Tiển thủ nước nhà hơi nhỏ bé
Nếu so cùng cầu tướng ở phương xa
Còi xuất quân vừa lanh lãnh ban ra
Thì trận đấu đã vô cùng sôi nổi.

Tiền đạo ta như sóng cồn tiến tới
Khi dạt ngang khi nhồi bong, làm bạn
Khiến đối phương thành rối loạn, hoang mang
Hậu vệ yếu phải lui về thế thủ

Thiếu bình tĩnh, một vài người chơi dữ
Nên trọng tài cảnh cáo đuổi ra sân
Quả bóng da lăn lộn biết bao lần
Hết hai hiệp và… đội nhà đã thắng.

Ta tuy bé nhưng đồng lòng cố gắng
Biết nêu cao gương đoàn kết đấu tranh
Khi giao banh, khi phá lưới, hãm thành
Nên đẹt giải dù địch to gấp bội…

Bài học thuộc lòng này về sau tôi được biết lấy cảm hứng từ chiếc cúp vô địch đầu tiên và duy nhất cho đến bây giờ của Việt Nam tại Đông Á Vận Hội trên sân Medeka của Malaysia vào cuối thập niên 50. Với những tên tuổi vang bóng một thời như là Tam Lan, Ngô Cù Sinh, Vinh đầu sói, Cụ Hè, Rạng tai nhựa. Tuy không biết chơi bóng đá nhưng thằng bé là tôi lúc đó rất thích bài học thuộc lòng này nên tự nhiên học thuộc luôn. Càng đọc càng ngẫm nghĩ, đây đâu phải là bài thơ chỉ nói về bóng đá mà thôi; nó là bài học đoàn kết của dân tộc nhỏ bé nhưng rất gan lì bất khuất khiến cho cả thế giới phải ngước nhìn bằng đôi mắt thâm phục. Bạn thấy lạ lùng chưa? Chỉ vì một bài thơ ngắn nói về một thứ trò chơi thôi, mà lại chứa đựng biết bao nhiêu điều vĩ đại mà những lời đau to búa lớn ồn ào chưa chắc đã làm được. Nói về môn lịch sử, hồi đó gọi là quốc sử đã có sẵn một bài đọc thuộc lòng khác.

Giờ Quốc Sử

Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu
Trên non song, làng mạc, ruộng đồng quê,
Chúng tôi ngồi yên lặng, lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng khắp trong giờ Quốc sử.

Thầy tôi bảo:
“Các con nên nhớ rõ,
Nước chúng ta là một nước vinh quang.
Bao anh hùng thở trước của giang san,
Đã đổ máu vì lợi quyền dân tộc.

Các con nên đêm ngày chăm chỉ học,
Để sau này mong nối chí tiền nhân.
Ta tin rằng, sau một cuộc xoay vần, Dân Tộc Việt vẫn là dân hùng liệt.

Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt,
Giống anh hùng trên Sông Núi Việt Nam.
Bên những trang lịch sử bốn ngàn năm,
Đầy chiến thắng, vinh quan và hạnh phúc.”

Hình ảnh ông thầy dạy sử trong bài học thuộc lòng hiện lên nghiêm nghị nhưng lại thân thương quá chừng. Và bài sử của thầy tuy không nói về một trận đánh, một chiến công hay một sự kiện quá khứ hào hùng nào nhưng lại có sức lay động mãnh liệt với đám học trò chúng tôi ngày ấy, đến nỗi mấy chục năm sau chúng tôi vẫn nhớ như in.

Lại có bài song thất lục bát về ông thầy dạy Địa lý, không nhớ tác giả là ai nhưng chắc chắn tựa đề là tập vẽ bản đồ phía lề trái còn in cả hình vẽ minh họa của Quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

Tập Vẽ Bản Đồ

Hôm qua tập vẽ bản đồ,
Thầy em lên bảng kẻ ô rõ rang.
Ranh giới vẻ phấn vàng dễ kiếm,
Từ Nam quang cho đến Cà Mau.

Từng nơi, thầy thuộc làu làu,
Đây sen Đồng Tháp, đây cầu Hiền Lương.
Biển Đông Hải, trùng dương xanh thẳm,
Núi cheo leo thầy chấm màu nâu.
Tay đưa mềm mại đến đâu,
Sông xanh uống khúc, rừng sâu chập chùng…

Rồi với giọng trầm hùng, thầy giảng:
“Giống Rồng Tiên chói rạng núi rừng,
Trải bao thăng giáng, phế hưng,
Đem dòng máu thắm, bón từng gốc cây.

Làn không khí giờ đây ta thở,
Đường ta đi, nhà ở nơi này,
Tổ tiên từng chịu đắng cay,
Mới lưu truyền lại đêm ngày cho ta.

Là con cháu muôn nhà gìn giữ,
Đùm bọc nhau, sinh tử cùng nhau.
Tóc thầy hai thứ từ lâu,
Mà tài chưa đủ làm giàu núi song!

Nay chỉ biết ra công dạy dỗ,
Đám trẻ thơ mong ở ngày mai.
Bao nhiêu hy vọng lâu dài,
Dồn vào tất cả trí tài các con…“

Giờ đây, mấy chục năm đã trôi qua, tóc trên đầu tôi cũng bắt đầu hai thứ như ông thầy già dạy Địa lý. trong bài học thuộc lòng ấy nhưng có một điều mà tôi nghĩ mãi vẫn chưa ra, ông thầy đang dạy Địa lý hay ông đang âm thầm truyền thụ lại lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc cho đàn trẻ thơ qua mấy nét bản đồ. Lời của thầy thật nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng cũng thật là tha thiết, chạm vào được, chỗ chạm vào được chỗ thiêng liêng nhất trong tâm hồn những đứa trẻ ngây thơ vào những ngày đầu tiên cặp sách đến trường, nơi chúng nó được dạy rằng “Ngoài ngôi nhà nhỏ bé của mình với ông bà, cha mẹ, anh em ruột thịt. Chúng còn có một ngôi nhà nữa, rộng lớn hơn rất nhiều, nguy nga tráng lệ, thiêng liêng vĩ đại hơn nhiều. Một ngôi nhà mà chúng phải thương yêu và có bổn phận phải vung đắp… Đó là… Tổ Quốc Việt Nam.”

Nguồn: TDGS


Bấm Vào Đây để xem “MÙA CHIA TAY – DUY KHÁNH” Video


Click to listen highlighted text!