Nguồn gốc và ý nghĩa tên gọi 63 tỉnh thành miền Nam
Phần 1
Sài Gòn, nguồn gốc tên gọi Sài Gòn vẫn chưa thống nhất mà có nhiều lý giải khác nhau. Có ý kiến cho rằng tên gọi Sài Gòn là từ ghép Sài + Gòn trong đó Sài tức là củi thổi, Gòn là loại bong xốp nhẹ, nhẹ hơn bông thông thường. Trong miền Nam thường dùng để dồn gối rồi nệm. Trong quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của cho rằng, ý nghĩa của từ Sài Gòn là củi Gòn cùng quan điểm. Học giả Trương Vĩnh Ký đã quyết là xưa người Khmer có trồng nhiều cây gòn chung quanh đồn Cây Mai và chính cụ cũng đã thấy loại cây đó vậy nên Sài Gòn có thể đơn giản mang nghĩa là rừng Gòn.
Rất nhiều người cho rằng tên gọi Sài Gòn được phiên âm từ Prey Nokor (ព្រៃនគរ) trong tiếng Khmer nghĩa là thị trấn ở trong rừng. Sau này dần dà đọc chệch từ Prey thành Rey rồi thành Sài từ Nôkôr được đọc lướt thành Co và thành Gòn nên mới có Sài Gòn như hiện nay. Cũng theo thuyết thì ở Sài Gòn xưa, cư dân bản địa chủ yếu sống quanh vùng chợ Lớn hiện nay thời đó có một rừng Gòn bao bọc khu vực người dân Khmer sinh sống vì vậy người ta gọi vùng đất này là Prey Nokor nghĩa là thị trấn ở trong rừng.
Gò Vấp, hiện nay Gò Vấp là một địa danh hành chính quen thuộc ở Sài Gòn, một Quận tập trung đông dân cư sinh sống. Có thuyết cho rằng cái tên Gò Vấp ra đời bởi trước đây nơi này là một gò đất cao có trồng nhiều cây Vấp, loại cây có nguồn gốc từ châu Á, là cây thân gỗ lớn khuôn thẳng cao từ 15 đến 20m, vỏ màu nâu đen, tán lá rậm. Loại cây này đã mọc nhiều thành rừng che chở cho đời sống của cộng đồng người Chăm vì vậy trong tiếng Chăm vẫn gọi cây Vấp là Krai. Sau này do đọc chệch âm và viết sai chính tả thành Gò Vấp như hiện nay. Còn về cây Vắp bấy giờ đã không còn trên địa bàn Sài Gòn nhưng nhiều cư dân bản địa cho rằng ở thảo cầm viên vẫn còn hai cây Vắp có tuổi thọ trên trăm năm. Bên cạnh cách lý giải về loại cây Vắp, dân tiểu thương tại chợ Gò Vấp kể lại rằng, một câu chuyện rất là hài hước. “Ngày trước ở đây cao, dân buôn bán nhà nghèo tụ họp thường bị rượt đuổi hoài bỏ chạy thì Vấp ngò mà té nên gọi là Gò Vấp”. Dĩ nhiên đây chỉ là một lý giải cho vui chứ không có phần nào là sự thật.
Riêng bàn về quận huyện ở Sài Gòn bên cạnh quận có chữ số 1, 2, 3 đến 11, 12 vẫn còn những cuộn được đặt tên với nghĩa là vùng đất mới trù phú và mong muốn an lành như Tân Bình, Bình Chánh, Bình Thạnh.
Ngã tư Bảy Hiền, ngày nay ngã tư Bảy Hiền là giao lộ trọng yếu của quận Tân Bình nối Trường Trinh, cách mạng Tháng Tám, Hoàng Văn Thụ và Lý Thường Kiệt. Chắc hẳn người Sài Gòn đã quá quen thuộc với địa danh này, thế nhưng Bảy Hiền là ai và vì sao người ta lại lưu giữ cái tên này đến tận bây giờ, không đổi thì ít ai hiểu được. Theo đó, Bảy Hiền tên thật là Trần Văn Hiền là một chủ Điền nổi tiếng ngày xưa, không chỉ giàu có, ông Hiền còn giàu lòng thương người. Vào mỗi dịp rằm hàng tháng, ông thường đem bạc đựng trong hai thúng đầy trước nhà, nay là trung tâm văn hóa Tân Bình để phân phát cho dân nghèo. Vào ngày nọ, người dân tập trung đông đúc chen lấn lấy bạc khiến hai đứa trẻ chết ngạt. Ông Hiền đau khổ dằn vặt, từ đó ông không phát tiền nữa mà mỗi tháng sẽ cho người đem sổ sách ra ngay Ngã Tư bây giờ, cứ ai khó khăn thì trình bày ký báo ông sẽ giúp đỡ. Sau khi mất, người Sài Gòn nhớ ơn ông Bảy Hiền gọi địa danh này là ngã tư Bảy Hiền.
Hàng Xanh là nút giao thông lớn ở cửa ngõ phía đông của Sài Gòn. Hàng Xanh quen thuộc với mọi người Sài Gòn, thế nhưng bạn có biết rằng địa danh này hình thành là bởi sự đọc chệch, viết sai chính tả của người miền Nam. Theo nhiều nhà nghiên cứu, ban đầu địa danh có tên Hàng Sanh, Sanh là một loại cây lớn, nhánh có tua về loại cây ra mà lá nhỏ. Ngày trước dọc đường vẫn có hai hàng cây Sanh lớn được người dân trồng. Vì quen thuộc nên họ gọi khu vực bằng tên cây là Hàng Xanh. Do sau này nhiều người miền Nam không phân biệt s và x cũng như viết sai chính tả đã tạo nên sự thay đổi của Hàng Sanh thành Hàng Xanh như hiện nay.
Cầu Bông, người Sài Gòn vẫn quen thuộc với các cây cầu nối liền ở các quận như cầu Chà Và, cầu Thị Nghè. Cầu Bông cũng là một phần như thế. Cầu nằm trên đường Đinh Tiên Hoàng, hiện nay nối liền quận 1 với quận Bình Thạnh. Theo đó cầu Bông được xây dựng vào thế kỷ 18 do một viên vương người Khmer bắt đầu cho dân tiện đường sang song. Tên gọi cầu Bông có nhiều giả thuyết đặt ra. Tuy nhiên, theo nghiên cứu thì vào đời tả quân Lê Văn Duyệt đã cho xây một vườn hoa gần cầu, người dân quen thuộc gọi là cầu Hoa. Sau này vào đời vua Minh Mạng vì hiện tượng kỵ hý với tên gọi của vợ vua là bà Hồ Thị Hoa, nên người ta phải đổi hẳn sang cầu Bông. Bởi lẽ với người nam từ bông là cách gọi khác để chỉ hoa cỏ.
Bến Nghé từng là một tên của bến nước xưa, rồi thành tên rạch, tên sông và giờ Bến Nghé trở thành địa phận hành chính của quận 1. Hiện nay người ta vẫn có nhiều lý giải tên gọi của địa danh này, tuy nhiên nguồn gốc thì gắn liền với hình ảnh con trâu. Theo Trịnh Hoài Đức, Bến Nghé trước đây là bến nước tụ họp cho trâu con uống nước, do một tên rất cũ là Chrome bom rapaz đã được Việt hóa. Nhưng nhiều nhà nghiên cứu khác cũng thêm rằng, Bến Nghé từng không phải là một nơi trâu uống nước mà theo tương truyền trên sông này trước có rất nhiều cá sấu sống chung. Đêm đêm chúng kêu lên văng vẳng như tiếng gầm của trâu rống, nên được gọi là nghé kết hợp với từ bến trong từ bến nước. Dù cách lý giải như thế nào ta vẫn thấy rõ rằng, ở đây, nơi này từng là một địa bàn có cuộc sống của thú rừng, cây cỏ trù phú, đặc trưng của vùng sông nước phương nam.
Đa Kao, bạn có tin rằng Đa Kao nghe có vẻ tây hóa. Nhiều người thường ngộ nhận là địa danh tiếng Pháp nhưng thực ra lại là một từ rất thuần Việt bị người dân đóng chệch và phiên âm mà thành. Theo đó Đa Kao bắt nguồn từ tên vùng đất Sài Gòn xưa gọi là đất hộ. Sau này vào thời Pháp, người Việt phải phiên âm tên đất hộ sang tên tiếng nước ngoài thành Đakao để dùng trong hành chính. Từ đó cái tên đất hộ bị quên lãng, người hiện nay chỉ còn nhớ về địa danh Đakao là 1 phường hành chính thuộc quận 1.
Ông Lảnh, bà Chiểu, bà Hạt, bà Điểm, bà Quẹo, bà Hom. Ở Sài Gòn có lẽ ai cũng nghe tên năm chợ mang tên các bà này. Có giả thuyết cho rằng đây là tên của 5 bà vợ của Lãnh Binh Thăng là một tên lãnh binh tên Nguyễn Ngọc Thăng, sinh 1798 mất 1866, võ tướng nhà Nguyễn thời vua Tự Đức. Địa danh cầu Ông Lãnh cũng là từ Ông Lãnh Binh Thăng nổi tiếng này. Học giả Trương Vĩnh Ký cho rằng năm người phụ nữ được đặt tên chợ ở Sài Gòn này vốn là các bà vợ của ông Nguyễn Ngọc Thăng. Từ những vị quan đa thê xưa thường áp dụng phương pháp kinh tế tự túc, nên vị lãnh binh đã lập 5 chợ ở 5 khu vực khác nhau giao cho mỗi bà cai quản một cái. Việc này tránh các bà đụng mặt nhau đồng thời chuyên tâm làm kinh tế. Về cây cầu mang tên Ông Lãnh, nhà bác học Trương Vĩnh Ký khẳng định chiếc cầu gỗ do Ông Lãnh Binh Thăng ở gần đó cho bắt qua. Chắc là Ông Lãnh Binh Thăng này chứ không phải ai khác. Cây cầu này đầu tiên nối đại lộ Đông Tây ngày nay, bắt qua một con rạch nhỏ khi rạch bị lấp, cây cầu mới nối bến Chương Dương Quận 1 và bến Vân Đồn Quận 4.
Năm 1874, một ngôi chợ được xây ở khu vực này mang tên chợ Cầu Ông Lãnh. Nơi đây ghe tàu tấp nập từ miền Tây theo sông Sài Gòn vào kênh Tàu Hũ buôn bán. Chợ được chia làm 3 khu vực: bán trái cây, bán cá và bán tạp hóa. Tuy nhiên trong cuốn Sài Gòn năm xưa, học giả Vương Hồng Sển lại cho rằng nên thận trọng khi cho Ông Lãnh, bà Chiểu, bà Điểm, bà Hom, bà Hạt và bà Quẹo là vợ chồng. Bởi theo ông, bà Hạt, bà Điểm, bà Chiểu có thể là người đầu tiên buôn bán tại các chợ này. Sau đó lấy tên đặt cho các chợ, giống như chợ bà Hoa ở khu ngã tư Bảy Hiền quận Tân Bình do người đàn bà tên Hoa đã hiến đất xây chợ và là người đầu tiên buôn bán, nên người ta lấy tên bà đặt cho tên ngôi chợ. Lý giải về bà Hom có sách chép cho rằng bầu hom, bầu ngâm tre nói chệch thành. Còn tên bà Quẹo cũng đọc chệch từ bờ Quẹo hoặc bàu quẹo, vì khu vực này có một khúc quẹo rất rõ. Từ quẹo vốn cũng được đặt cho nhiều địa danh như cống Quẹo ở Phạm Văn Hai huyện Bình Chánh hay lộ Quẹo tại huyện Cần Giờ.
Thị Nghè, ở quận Bình Thạnh có cầu, chợ và kênh mang tên Thị Nghè. Người này vốn là Nguyễn Thị Khánh, con gái quan khâm sai Nguyễn Cửu Vân. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định Thành Thông Chí viết rằng do chồng là thư ký Mỗ nên người đương thời gọi là Thị Nghè. Do bà khai hoang đất ở, bắt cầu để tiện việc đi lại nên dân gọi là kênh cầu Thị Nghè.
Ông Tạ, địa danh ông Tạ là vùng đất thuộc các phường 3, 4, 5, 7, thuộc quận Tân Bình hiện nay, cũng là tên một ngôi chợ ở phường 5. Cạnh chợ có một tiệm thuốc nam của ông Tạ. ông Tạ tên thật là Trần Văn Bỉ lấy hiệu là Tạ Thủ là một thầy thuốc nam chữa bệnh nổi tiếng trong vùng. Trước đây, ông tạ có mở một tiệm thuốc nằm ở góc đường Phạm Văn Hai, Cách Mạng Tháng 8 hiện nay. Đa số người bệnh tìm đến ông và lấy thuốc về đều khỏi. Tiếng lành đồn xa nên người dân ở các tỉnh Nam Kỳ tìm về cơ sở của ông không ngớt. Ông còn là một nhà hảo tâm thường xuyên chữa bệnh và bốc thuốc miễn phí cho người nghèo. Khu đất xung quanh tiệm thuốc của ông Tạ được đặt tên là “Ông Tạ” ngay khi ông còn sống là cách nhân dân tỏ lòng tôn kính vì đã chữa bệnh giúp người.
Ngã 5 Chuồng Chó, đây có lẽ là địa danh lạ nhất được nhân dân quen gọi, cho dù khu đất này ngày nay đổi tên chính thức thành ngã 6 Gò Vấp. Nguồn gốc tên gọi này vào những năm 1945, thực dân Pháp cho xây dựng ở khu vực Ngã Năm một cơ sở nuôi và huấn luyện chó lớn nhất Đông Dương phục vụ việc tuần tra và cảnh giới.
Bình Phước (Sông Bé cũ), thời nhà Nguyễn, Bình Phước thuộc trấn Biên Hòa. Đến giữa thế kỷ XIX, Pháp chiếm Nam kỳ thành 4 khu vực là Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bát Giác. Lúc này Bình Phước thuộc khu vực Sài Gòn. Từ năm 1889, pháp đổi các tiểu khu thành các tỉnh Bình Phước thuộc tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một. Từ năm 1956, Việt-nam Cộng-hòa thiết lập một số tỉnh mới ở miền Nam trong đó có hai tỉnh Bình Long và Phước Long là tiền thân của tỉnh Bình Phước. Đầu năm 1971, Trung ương Cục Miền Nam thành lập phân khu Bình Phước. Đến cuối năm 1972, giải thể phân khu này và thành lập tỉnh Bình Phước. Bình Phước là tỉnh có diện tích lớn nhất Nam Bộ.
Tỉnh Bình Dương, thuở ban đầu thời mới mở đất phương nam, Bình Dương là một tổng thuộc huyện Tân Bình phủ Gia Định. Đến năm 1808, huyện Tân Bình được đổi thành phủ thì tỉnh Bình Dương được nâng lên một trong bốn huyện của phủ này. Năm 1956, tỉnh Bình Dương được thiết lập nhưng không phải trùng với địa bàn của tỉnh Bình Dương trước kia. Đến năm 1997, tỉnh Bình Dương được tái lập nhưng cũng không phải hoàn toàn là địa phận của tỉnh Bình Dương trước năm 1975. Như vậy trong lịch sử, Bình Dương là tên gọi của những đơn vị hành chính theo những cấp độ khác nhau như tòng, huyện, tỉnh với những địa bàn lãnh thổ khác nhau vốn gắn liền với Gia Định Đồng Nai xưa tức là miền Đông Nam Bộ ngày nay. Cư dân Bình Dương là một bộ phận của cư dân miền Đông Nam Bộ nhưng đồng thời Bình Dương là vùng đất được bao bọc bởi sông Đồng Nai và Sông Sài Gòn.
Tỉnh Đồng Nai, Đồng Nai là cánh đồng có nhiều nai theo tác giả Trịnh Hoài Đức trong Gia Định Thành Thông Chí hay Đại Nam Nhất Thống Chí Quốc Sử Quán triều Nguyễn đề cập. Đồng Nai, chợ Lộc Dã ở phía Nam hạ lưu sông Phước Long huyện Phước Chính vì trước kia là đồng nội lắm hươu nai nên gọi tên vậy hoặc là Lộc Động tục Gọi chợ Đồng Nai xét 6 tỉnh Gia Định mà gọi chung là Đồng Nai. Là vì lúc mới khai thác bắt đầu từ Đồng Nai nên lấy chỗ gốc mà bao trùm. Nhà nghiên cứu Trần Hiếu Thuận bút danh Hoàng Thơ cho rằng Đồng Nai bắt nguồn từ tên gọi của dòng sông Đạ Đờn của người Mạ qua sự chuyển dịch ngôn ngữ đồng bào dân tộc Mạ. Một cư dân quan trọng ở Đồng Nai với địa bàn sinh sống của mình trong đó có sông Đồng Nai, họ đã gọi sông Đồng Nai là Đạ Đờn. Đạ là nơi xuất phát của dòng nước, Đờn là sông. Từ Đạ Đờn có sớm nhất cũng 3000 năm và cách đây từ 300 năm Đạ Đờn đã chuyển thành Đồng Nai. Vậy có nghĩa từ Đờn chuyển thành Đồng, còn Đạ bỏ mất thêm chữ Nai, Đồng Nai. Nhà văn Bình Nguyễn Lộc cho rằng Đồng Nai bắt nguồn từ con sông lớn có nhiều nai chứ không phải là cánh đồng có nhiều hươu nai.
Tỉnh Tây Ninh, người Khmer xưa gọi Tây Ninh là Roŭng Dâmrei, (Khétt / ខេត្តរោងដំរី), [រោង /Roung/: chuồng; chi thìn (năm con rồng), ដំរី / Damrei /: con voi] Xứ Chuồng Voi. Ở Tây Ninh có núi Bà Đen, bà Dinh, cũng gọi là núi điện bà Chiêng Bà Đen. Vua Gia Long đã phong cho bà là Linh Sơn Thánh Mẫu. Người Khmer có thờ một nữ thần gọi là mẹ Đen, theo truyền thuyết thì núi Bà Đen gọi là Bàn Chân của Bà.
Vũng Tàu, theo cuốn Gia Định Thành Thông Crí ghi chép thì địa danh Vũng Tàu có nghĩa là thuyền Úc, vụ Úc. Úc là chữ Nôm có nghĩa là Vũng, cửa biển vịnh đi sâu vào đất liền. Thời Pháp, người Pháp gọi là Captain Jack. Thời Mỹ ở miền Nam hay gọi là Ô Cấp. Ở Vũng Tàu trên đỉnh núi nhỏ có tượng Chúa Giêsu đứng giang tay nhìn ra biển được xây dựng từ năm 1974, tuy nhiên do chiến cuộc và thời cuộc đến năm 1975 bị ngưng và bỏ phế. Đến năm 1992, được Tòa Giám mục địa phận Xuân Lộc đề nghị sửa chữa và tu bổ. Ngày mùng 1 tháng 12 năm 1994 chính thức khánh thành bởi giám mục giáo phận Xuân Lộc Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật. Tượng Chúa Giêsu ở Vũng Tàu được mô phỏng như tượng chúa cứu thế ở Rio de janeiro Brazil xây dựng năm 1931.
Tỉnh Bà Rịa, theo quyển Mano Graphics de Paris của một người Pháp viết năm 1902, cho biết địa danh Bà Rịa xuất phát từ tên của một người phụ nữ tên là Nguyễn Thị Rịa. Đây là người đã có công khai phá đất hoang lập làng Phước Liêu vào năm 1789. Tuy nhiên theo tài liệu Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, địa danh Bà Rịa là do đọc nhại từ tên của một tiểu vương quốc bà Ly hay bà Lợi. Tiểu vương quốc này tồn tại khoảng thế kỷ thứ 7 sau đó bị quân Chân Lạp thôn tính. Vùng Bà Rịa xưa còn được gọi là vùng Mô Xoài hay Mũi Xị là nơi tiếp nhận những người Việt đầu tiên từ miền Trung vào khai phá vùng đất Nam Bộ. Truyền thuyết dân gian kể rằng vào khoảng thế kỷ thứ 18, bà Nguyễn Thị Rịa từ Phú Yên Bình Định vào khai phá vùng đất này. Bà đã bỏ tiền thuê dân vào khai hoang, lập làng mạc, mở nhiều nông trại. Bà đối xử rất tốt với những người mới đến định cư và khai hoang nên được mọi người yêu mến. Năm 1803, bà Rịa mất, vì không có con, nên tài sản của bà được để lại cho người dân vùng Tam Phước. Người dân nhớ ơn bà nên đã lập miếu thờ và đặt tên cho vùng đất này là Bà Rịa. Hiện nay ngôi mộ của bà vẫn còn ở ngọn núi Tam Phước hay còn gọi là núi Cố.
(1) prey có nghĩa là rừng, và nôkôr là một từ Khmer có nguồn gốc từ tiếng Phạn có nghĩa là thành phố
Ký Ức Sài Gòn _
Phần 2
Miền Nam, đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, người Việt và người Khmer sống chung với nhau văn hóa đã ảnh hưởng qua lại, điều đó biểu hiện rõ nét qua một số địa danh. Một số nơi tên gọi nghe qua thì rất là Việt Nam nhưng lại bắt nguồn từ tiếng Khmer. Điều đó chứng tỏ người Việt đã Việt hóa tên các địa danh một cách rất tài tình.
Châu Thành điện dùng để đặt tên trong 11 Huyện của 10 tỉnh là An Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh và Tây Ninh. Riêng Hậu Giang có hai huyện là Châu Thành và Châu Thành A. Sau khi thực dân Pháp đánh các Tỉnh Nam Kỳ, ngày 5 tháng 6 năm 1876, Pháp ra nghị định chia 6 Tỉnh Nam Kỳ Thành 24 hạt tham điện trong đó từ Lũy Sở được gọi là Châu Thành có chức năng như một trung tâm hành chánh và cho đến năm 1912 thì địa danh Châu Thành được chính thức đặt cho nhiều đơn vị hành chánh của các tỉnh. Châu Thành có nghĩa là bao vây chung quanh thành phố.
Cần Thơ, nguồn gốc ý nghĩa tên gọi Cần Thơ: thứ nhất ngày xưa khi chưa lên ngôi vua chúa Nguyễn Ánh đã vào nam và đi qua nhiều vùng châu thổ Sông Cửu Long. Một hôm đoàn thuyền của chúa đi theo sông Hậu vào địa phận thủ sở trấn Giang đêm vừa xuống thì đoàn thuyền cũng vừa đến sông Vàm, sông Cần Thơ là bến Ninh Kiều ngày nay.
Đoàn thuyền đang lênh đênh mặt nước ở ngã ba sông này, Chúa nhìn vào phía trong thấy nhiều thuyền bè đậu dài theo hai bờ song, đèn đóm chiếu sáng lập lòe, giữa đêm trường canh vắng vọng lại nhiều tiếng ngâm thơ hò hát, tiếng đàn tiếng sáo hòa nhau nhịp nhàng. Chúa thầm khen về một cảnh quan Sông Nước Hữu Tình. Chúa mới có cảm nghĩ ban cho con sông này một cái tên đầy thơ mộng là cầm thi Giang tức là con sông của thi ca đàn hát. Dần dần hai tiếng Cẩm Thi được lan rộng trong dân chúng và nhiều người phải nói trải ra là Cần Thơ. Tên Cần Thơ nghe hay và đẹp nên được người trong vùng chấp nhận và cùng gọi là sông Cần Thơ.
Giả thuyết thứ hai: sông Cần Thơ ngày xưa ở hai bên bờ, dân chúng trồng rất nhiều rau cần và rau thơm, ghe thuyền chở nhiều loại rau cần, rau thơm qua lại giao bán đông vui từ năm này qua năm khác. Cũng có thể từ đó mà người dân địa phương gọi sông này là sông Cần Thơm và nói chạy đi là Cần Thơ.
Giả thuyết thứ ba: cái tên Cần Thơ đầu tiên chỉ dùng cho một con rạch có nhiều cá kìm tho, một loại cá sặc rằn có nhiều ở vùng này được dùng làm khô tới nay vẫn còn nhiều người ưa chuộng. Người lục tỉnh có thói quen gọi tên sông rạch bằng loại thực vật có nhiều dưới sông như rạch Bần, rạch Gốc, rạch Bùn, rạch Cát, rạch Cá Tra, rạch Cá Sấu, rạch Cá Chốt, rạch Cá Trê và con rạch có nhiều cá kìn tho được gọi là rạch Kìn Tho. Kìn Tho là tiếng Khmer, người Khmer đọc âm Kìn trong cổ họng nghe như ân. Thuở đó người Việt Nam có thói quen đọc âm Ân là Yên như Nhin Sim, rạch Nhân Sâm, Tiểu Nhin, Tiểu Nhân, Nhân Nghĩa, Nhin Ngãi. Do vậy Kìn Tho được người Việt Nam địa phương đọc trải thành Cần Thơ hoặc con rạch có nhiều cá Kìn Tho được người mình gọi là rạch Cần Thơ.
Không biết đâu là cách lý giải chính xác nhất nhưng dù nói thế nào đi nữa thì từ xa xưa, người dân địa phương đã gọi dòng sông quê hương mình là sông Cần Thơ. Đến năm 1876 khi Pháp lấy huyện Phong Phú lập ra hạt mới thì đã dùng tên sông Cần Thơ để đặt cho hạt Cần Thơ rồi sau đó là tỉnh Cần Thơ.
Wikipedia – Khi đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng này là Prek Rusey (sông tre), không thấy có liên quan gì về ngữ âm. Trong Gia Định thành thông chí có chép địa danh Cần Thơ bằng chữ Hán Nôm là 芹苴 . Người nghiên cứu không nên vội vàng kết luận “Cần Thơ” là một địa danh gốc Việt và vội vàng tìm hiểu của hai chữ Hán Nôm “Cần – 芹” và “Thơ – 苴”. Nếu dò tìm trong hướng các địa danh Việt hoá, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ âm của từ Khmer ត្រី កន្ធរ /trei kantho/, nghĩa là cá sặc rằn hay cá sặc bổi, người Bến Tre gọi là cá “lò tho”.
Nếu vào thời Nhà Nguyễn độc lập, vùng đất Cần Thơ có tên là Phong Phú thì đến thời Việt Nam Cộng hòa, vùng đất này lại mang tên một địa danh mới lạ hoàn toàn và chưa bao giờ xuất hiện trước đó – Phong Dinh. Cần Thơ còn được biết đến với tên gọi không chính thức là Tây Đô, nghĩa là “thành phố lớn của miền Tây”. Về mặt Hán tự, Tây 西 nghĩa là phía Tây và Đô 都 nghĩa là thành phố lớn.
Bến Tre, địa danh Bến Tre được cấu tạo theo cách địa thế tự nhiên + tên loài cây có nghĩa là một bến có nhiều tre mọc giống như Bến Giá, Bến Tranh, Bến Rứt. Địa danh Bến Tre xuất hiện dưới thời nhà Nguyễn nhưng với ý nghĩa là một trung tâm hành chính thì phải kể từ khi thực dân pháp đặt Dinh Tham Biện đầu tiên ở bên bờ con rạch cùng tên. Tháng 6 năm 1867, khi có quyết định của chính quyền thực dân, rút bớt sở ở tham biện từ 25 xuống còn 18, thì sở tham biện Bến Tre là một trong số 7 sở tham biện bị bát bỏ để sáp nhập với tham biện Mỏ Cày. Ngày mùng 2 tháng 9 năm 1871, sở tham biện Mỏ Cày rời lũy sở về chỗ cũ bên rạch Bến Tre làng An Hội.
Ngày 1 tháng 1 năm 1900, toàn quyền Paul Doumer áp dụng nghị định đổi sở tham biện thành tỉnh. Tỉnh Bến Tre chính thức đặt tỉnh lỵ ở địa điểm hiện nay cho đến cách mạng tháng Tám năm 1945 thì đổi tên thành thị xã Bến Tre. Theo bản đồ tỉnh lỵ Bến Tre do Lerbra đo đạc năm 1906, được thống đốc Nam Kỳ Wayler phê chuẩn năm 1919, thì tỉnh lỵ được thiết kế trong quy mô ban đầu khoảng 10.000 dân.
Tỉnh Bến Tre trồng nhiều dừa nhất cả nước, mía, nghêu là địa danh nghèo nhất Nam Bộ nhưng có phong trào kháng chiến chống Pháp mạnh vào đầu thế kỷ 19 của ông Phan Tôn và Phan Liên. Các con của cụ Phan Thanh Giản, nhà yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đánh Pháp Gia Định về ẩn cư ở Ba Tri. Phong trào Đồng khởi chống Mỹ nổ ra ở Mỏ Cày là quê hương của Phan Thị Hồng Châu, Lê Chính, Mình Tấn Phát, Nguyễn Thành Trung, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Thị Định.
Tỉnh Bến Tre có từ thời Pháp, nguyên là đất Khmer gọi là Sóc Tre tên chữ Hán là Trúc Giang. Địa danh Bến Tre có từ xưa khi vùng đất này là Thủy Chân Lạp. Từ Campuchia đến thời Pháp thuộc và đến ngày nay chứ không phải như mọi người nghĩ tại sao nơi đây trồng nhiều dừa nhất nước mà không gọi là Bến Dừa mà là Bến Tre. Có thể ngày xưa vùng đất này còn hoang sơ, nhiều tre sậy mọc dọc hai bên bờ sông nên người Khmer lấy tên là sóc tre đọc lại là Bến Tre.
Có nhiều người thắc mắc, tại sao nơi đây là xứ dừa mà lại có tên là Bến Tre?
Theo tác giả Vương Hồng Sển, từ Bến Tre vốn phiên âm từ Srok Treay, srok là xứ, treay là cá. Như vậy, Bến Tre nên được hiểu là Bến Cá và nổi tiếng vì có nhiều cá.
Để minh chứng cho điều này, tác giả còn nói thêm ở Bến Tre còn nhiều địa danh liên quan đến cá như: cầu Cá Lóc, cầu Cá Trê, Cái Bông (loại cá lóc lớn con hơn và mình có hoa)…Và theo điển tích, Bến Tre vốn là xứ sinh sản và sản xuất cá, tôm cho nên từ xưa Khơme gọi là Srok Treay (sốc tre), nhưng sau này người Khơme gọi theo người Việt là bến có nhiều tre.
Cũng có những ý kiến khác cho rằng vùng đất này xưa kia vốn có nhiều tre thật, và tên gọi Bến Tre vốn chỉ nơi buôn bán tre. Nhưng theo chúng tôi thì ý kiến của tác giả Vương Hồng Sển có phần hợp lý hơn. Vì nếu thật sự xưa kia nơi đây có nhiều tre thì lẽ ra cũng phải có những tên gọi khác liên quan tới tre, như tỉnh Đồng Nai được đặt tên do có nhiều Nai, thì hiện tại vẫn có những địa danh có tên liên quan như Hố Nai (tương truyền là nơi các thợ săn xưa kia đặt hố bẫy nai). Nhưng ở Bến Tre thì không thấy hiện tượng này.
Đồng Tháp Mười, Nguồn gốc tên gọi vùng Đồng Tháp Mười. Các giả thuyết trong dân gian về tên gọi Đồng Tháp Mười có những giả thuyết như sau:
Thứ nhất – Ngày xưa cánh đồngnày thuộc một vương quốc giàu có, trong nước có 10 đời quốc vương. Mỗi ông xây cho mình một ngôi tháp làm nơi an nghỉ cuối cùng. Ngôi tháp của ông vua thứ 10 là ngôi tháp mà chúng ta đang nói, từ đó có lời đồn là trong tháp 10 có vàng.
Thứ hai – Cho rằng đây là cái chùa, tháp thứ 10 tính từ Lục Chân Lạp xuống nối liền các chùa. Tháp này là các con đường lót đá.
Thứ ba – Đây là cái tháp 10 tầng của Chân Lạp. Có lẽ theo thuyết này nên chính quyền Ngô Đình Diệm vào năm 1958 cho xây lại một cái tháp mười tầng cao 42m, theo kiểu tháp chùa Thiên Mụ Huế một loại hình kiến trúc Trung Quốc.
Thứ tư – Đây là tháp canh thứ 10, tính từ 3 sao vào Gò Tháp hoặc 10 tầng gọi là thăng trong của nghĩa quân Thiên Hộ Dương để canh chừng rạch tháp. Địa danh Tháp Mười có 2 âm tiết, tháp cộng 10 được hình thành theo dạng thức danh từ + số từ. Về âm tiết tháp, ở đây chữ Tháp một danh từ chung chỉ một công trình xây dựng ngôi tháp, cái tháp đã trở thành một yếu tố của địa danh Tháp Mười và chữ Tháp được viết hoa về âm Tết 10. Nó vốn là danh từ chỉ số lượng 10 tầng. Cũng có thể là 10 ngôi tháp hoặc số thứ tự thứ 10, một đặc điểm của ngôi Tháp.
Hiện nay trong dư luận chưa có sự thống nhất về nội dung ý nghĩa của âm tiết 10. Địa danh Tháp Mười đều có thể mang nội dung Tháp thứ 10, tháp mười tầng hay 10 cái tháp. Phần lớn các địa danh ở Nam Bộ mà chúng ta đang sử dụng hiện nay đều được hình thành muộn nhất là đến đầu thế kỷ thứ 19 và đã được Trịnh Hoài Đức tập hợp để trình bày trong Gia Định Thành Thông Chí vào khoảng năm 1820. Sau đó được thể hiện chi tiết cụ thể hơn trong địa bạn Nam Kỳ năm 1836.
Ngoài các địa danh hành chính do cấp quyền chủ động đặt bằng các từ Hán Việt. Phần nhiều địa danh còn lại như tên xóm, trong địa bạn thường chép là Sứ. Tên sông, rạch, dòng, gồ, gò đều do nhân dân tự đặt ra, được qua quá trình giao tiếp thường là âm Nôm, căn cứ vào các đặc điểm của đối tượng để đặt tên cho nó. Nhưng khi ghi chép vào văn tự thì các địa danh này được thay thế bằng ngữ âm Hán Việt, nên Tháp Mười trở thành Thập Tháp.
Từng là trung tâm tôn giáo của vương quốc cổ Phù Nam?
Vùng đất này xa xưa vốn thuộc vương quốc cổ Phù Nam – một quốc gia cổ đại hùng mạnh ở Đông Nam Á, vào khoảng đầu Công nguyên (thế kỷ 1 – 6). Những kết quả nghiên cứu khảo cổ ở khu di tích Gò Tháp (Đồng Tháp) đã tìm thấy nhiều hiện vật thuộc Văn hóa Óc Eo với các tượng Phật bằng gỗ mù u rất phong phú và đa dạng về kích thước và kiểu dáng; nhiều mảnh gốm cổ, một số mảnh vỡ của các bệ yoni, tượng thần Vishnu, một số bia ký Phù Nam, trong đó bia ký (được định danh) K5 tìm thấy ở di tích Gò Tháp, được cho là có niên đại thế kỷ 5, nội dung cho biết: vùng đầm lầy này được chinh phục bởi vị vua Phù Nam mang tên Jayavarman và nhà vua giao cho con trai mình là Gunnavarman cai quản.
Ngoài những di vật gốm, tượng, bia ký cổ xưa, tại khu di tích Gò Tháp, những cuộc khai quật khảo cổ còn làm phát lộ nền móng bằng gạch của các công trình lớn và những công trình phụ trợ xung quanh.
Quy mô kiến trúc, các di vật khảo cổ cùng với hệ thống đường giao thông thủy trong khu vực di tích Gò Tháp đã cho thấy rằng, rất có thể nơi đây từng là một trung tâm văn hóa – tôn giáo quan trọng của cả một vùng rộng lớn xung quanh nó trong khoảng thời gian cách nay khoảng 15 thế kỷ.
Vĩnh Long, nguồn gốc tên gọi tỉnh Vĩnh Long. Tên Vĩnh Long một thời được gọi là Vãn Long nhưng tên hành chính này đầu tiên để chỉ tỉnh Vĩnh Long và rộng hơn, bao gồm các tỉnh lân cận hiện nay lại là Vĩnh Thanh Chấn đã có từ trước khi Lê Văn Duyệt mất năm 1832. Lúc ấy Gia Định Nam Kỳ được phân chia thành Ngũ trấn. Có các trấn Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên. Sau cái chết của Lê Văn Duyệt, Minh Mạng xóa bỏ Gia Định lập thành 6 tỉnh gọi là Lục tỉnh và có các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Như vậy trấn Vĩnh Thanh được đổi thành tỉnh Vĩnh Long.
Sau năm 1975, tỉnh Vĩnh Long lại có thời gian được gọi là tỉnh Cửu Long. Tên gọi Vĩnh Long âm Hán Việt có nhiều nghĩa vấn đề là chữ Hán vì vậy tên gọi Vĩnh Long có thể ngụ ý sự thịnh vượng, lâu bền, mãi mãi. Còn Vãng nếu là sự chuyển đổi từ Vĩnh theo con đường ngữ nghĩa thì khó lý giải. Mối quan hệ ngữ nghĩa vì nghĩa của từ Vãng là đi qua, đã đi thường không phù hợp với nghĩa của Vĩnh như trong từ ghép Vĩnh Long.
Wikipedia – Vĩnh Long viết theo chữ Hán là (永隆). (Vĩnh trong vĩnh viễn, vĩnh hằng, nghĩa là “mãi mãi”; Long trong long trọng, nghĩa là “thịnh vượng, giàu có”). Tên Vĩnh Long thể hiện mong muốn nơi đây luôn được thịnh vượng muôn đời.
Mỹ Tho, sự kết hợp hai thành tố có ngữ âm hoàn toàn Việt Nam, Mỹ và Tho không tạo nên một ý nghĩa nào khác theo cách hiểu trong tiếng Việt. Những tài liệu thích ứng về lịch sử và sinh hoạt của người Khmer trong thời xa xưa đã xác định địa phương này có lúc được gọi là “Mi Sor”, có nghĩa là xứ nàng trắng, mình gọi là Mỹ Tho.
Mỹ Tho là thành phố, tỉnh lỵ của tỉnh Tiền Giang, từ năm 1976 đến nay. Trước đó là tỉnh Mỹ Tho vùng đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam. Thành phố Mỹ Tho, hiện là đô thị loại 1 nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của phía Nam. Thành phố Mỹ Tho là thành phố đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh đầu tiên của đồng bằng sông Cửu Long và là đô thị lớn thứ 2 của khu vực sau thành phố Cần Thơ. Ở đây dân tộc Kinh chiếm đa số và có dân tộc Hoa, Chăm và Khmer cùng chung sống.
____ o 0 o ____
Nguyễn Chương
“Mỹ Tho” mang nghĩa “nàng thiếu nữ da trắng”, có phải vậy không?
Thời bấy giờ chúng ta vẫn dùng văn tự là chữ Hán, chữ Nôm (chưa có chữ Quốc ngữ), địa danh này được ghi là: 美萩, đọc theo đúng âm Hán-Việt là “Mỹ Thu” (“thu” là một loại cỏ ngải), nhưng lại đọc thành “Mỹ Tho”. Thành thử hai chữ Mỹ Tho được suy đoán là biến âm, là cách ghi việc đọc trại âm từ một ngôn ngữ khác.
Theo Di cảo Trương Vĩnh Ký, người Khmer gọi xứ này là “Mi Sor”, nghĩa là xứ sở của “nàng con gái” (“mi”) mang làn da trắng (“sor”). Lưu dân người Việt đã đọc biến âm “Mi Sor” thành “Mỹ Tho”.
Tuy nhiên, “Mi” dựa theo cách đọc trong nguyên ngữ មេ của người Khmer, không chỉ mang nghĩa là “cô gái trẻ” mà còn mang những nghĩa khác nữa, là “mẹ”, là “người đứng đầu, chỉ huy”. Còn “Sor” ស nghĩa là “trắng”.
Bên Campuchia, “Mi Sor” មេ ស được thờ cúng ở nhiều nơi, đây là một biến thể của nữ thần Parvati trong Ấn Độ giáo (Hinduism). Parvati là mẹ của các nam thần lẫn nữ thần như thần voi Ganesha và thần chiến tranh Skanda. Người ta còn tin rằng Parvati được xuất sinh từ thần tuyết trắng phau Himavat. Parvati (“Mi Sor” មេ ស) là biểu tượng chiến thắng của cái thiện trước cái ác. “Mi Sor” là nữ thần Mẹ (“Bạch mẫu”).
Ngày trước, khi Mỹ Tho vẫn còn là lãnh thổ của Chân Lạp (trước khi được vua Chân Lạp dâng đất cho chúa Nguyễn), rất có thể nơi đây từng tồn tại một số đền thờ “Mi Sor”, người Việt đã đọc trại “Mi Sor” là “Mỹ Tho”. Vậy, “Mi Sor” / “Mỹ Tho” nên hiểu theo nghĩa là Nữ thần Mẹ, là Bạch mẫu.
Sóc Trăng, theo cuốn học giả Vương Hồng Sển đúng ra phải gọi là Sóc Trăng. Sóc Trăng xuất phát từ tiếng Khmer “Srok Kh’leang” Srok có nghĩa là xứ, cõi Kh’leang là kho chứa vàng bạc của vua. Srok Kh’leang có nghĩa là sứ có kho vàng bạc của nhà vua. Trước kia người Việt viết là Srok Kh’leang, sau nữa biến thành Sóc Trăng. Tên Sóc Trăng đã có những lần bị biến đổi hoàn toàn. Thời Minh Mạng đã đổi lại là Nguyệt Giang tỉnh có nghĩa là Sông Trăng, srok thành sông tiếng Hán Việt là giang, trăng là nguyệt. Đến thời ông Diệm lại gọi là tỉnh ba Xuyên, Châu Thành Khánh Hưng. Bây giờ thì được trả lại là Sóc Trăng.
Wikipedia – Tên gọi Sóc Trăng do từ Srok Kh’leang của tiếng Khmer mà ra. Srok (ស្រុក) tức là “xứ”, “cõi”, Kh’leang (ឃ្លាំង) là “kho”, “vựa”, “chỗ chứa bạc”. Srok Kh’leang (ស្រុកឃ្លាំង) mang ý nghĩa là xứ có kho chứa bạc của nhà vua. Tiếng Việt phiên âm ra là “Sóc-Kha-Leng” rồi sau đó thành Sóc Trăng. Dưới triều Minh Mạng, Sóc Trăng đổi thành Sông Trăng, dịch theo Hán tự là Nguyệt Giang (月江), nên Sóc Trăng gọi là Nguyệt Giang tỉnh.
Bạc Liêu, từ khi hình thành đã lấy tên của con rạch Bạc Liêu (có giả thiết cho rằng do Poanh Liêu mà ra, tức là nơi có Đạo quân Lào trú đóng thời xưa). Tên gọi “Bạc Liêu” đọc giọng Triều Châu là “Pô Léo”, có nghĩa là xóm nghèo, làm nghề hạ bạc, tức là nghề chài lưới, đánh cá, đi biển. Pô phát âm theo tiếng Hán Việt là “bạc” và Léo phát âm là “Lieu”. Ý kiến khác lại cho rằng “Pô” là “bót” hay “đồn”, còn “Liêu” có nghĩa là “Lào” (AI Lao) theo tiếng Khmer, vì trước khi người Hoa kiều đến sinh sống, nơi đó có một đồn binh của người Lào. Còn đối với người Pháp họ căn cứ vào tên Pô Léo theo tiếng Triều Châu nên họ gọi vùng đất này là Phêcheri – chaume có nghĩa là “đánh cá và cỏ tranh”. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng tên gọi Bạc Liêu xuất phát từ tiếng Khmer Po Loenh, nghĩa là cây đa kao.
Cà Mau – “…khi tộc Khmer còn làm chủ khu vực này, địa danh Cà-Mau ngày nay được họ gọi là “Cà-Mâu”. Nhưng khi người Việt sau đó tìm tới chung sống cùng họ, lại chuyển dịch nghĩa địa danh “Cà- Mâu” ấy ra “Nước Đen” để làm tên gọi thông dụng riêng cho mình. Còn ngay trong quyển Thành Trì Chí nói trên, căn cứ vào cách gọi riêng ấy của người Việt bấy giờ, Trịnh Hoài Đức lại tiếp tục chuyển dịch sang nghĩa chữ Hán, gọi là “Hắc Thủy”.
“…nơi ngôn ngữ Khmer, có cấu trúc văn phạm thuận xuôi từ trái sang phải như tiếng Việt. Nên “nước đen”, người Khmer nói lẫn viết là “Tưk Kha-mau” (tiếng Khmer: តឹកខ្មៅ), có nghĩa là nước đen. Giống như “ông lớn”, người Khmer nói hoặc viết là “lục thum”, chứ không phải là “thum lục”. Tương tự, bên trái chân cầu Sài-Gòn dẫn vào thủ đô Nông–Phênh của nước Cambodia hiện nay có một huyện có tên theo tiếng Việt là “Ông Đen”, nhưng người Khmer đương thời vẫn gọi và viết là “ Tà kh-mâu”, chứ không phải là “Kh-mâu tà”
Wikipedia – Tên gọi Cà Mau (chính tả cũ: Cà-mau) được hình thành do người Khmer gọi tên vùng đất này là “Tưk Kha-mau” (tiếng Khmer: តឹកខ្មៅ), có nghĩa là nước đen. Do Nước đen là màu nước đặc trưng do lá tràm của thảm rừng tràm U Minh bạt ngàn rụng xuống làm đổi màu nước. Cà Mau là xứ đầm lầy ngập nước, có nhiều bụi lác mọc tự nhiên và hoang dã. Chính vì lẽ đó từ thuở xưa đã có câu ca dao:
“ Cà Mau là xứ quê mùa
Muỗi bằng gà mái, cọp tùa bằng trâu ”
— Ca dao Việt Nam
Nguồn: Ký Ức Sài Gòn
https://www.youtube.com/watch?v=jVNzCMA29qY
https://en.wiktionary.org/wiki/Prey_Nokor
https://www.youtube.com/watch?v=ZeEN_c_IOVQ
https://www.facebook.com/photo.phpfbid=2749621005116123&id=296435410434707&set=a.467848443293402&locale=vi_VN
https://www.facebook.com/permalink.php/story_fbid=2123876504490395&id=1454229538121765&locale=vi_VN
https://thanhnien.vn/ten-goi-dong-thap-muoi-co-tu-khi-nao1851107801.htm
https://baovinhlong.com.vn/van-hoa-giai-tri/201708/ten-goi-vinh-long-co-nghia-gi-2832539/
https://saigonthapcam.wordpress.com/2022/01/11/dia-danh-my-tho-va-ten-goi-hu-tiu/
http://baobaclieu.vn/van-hoa-nghe-thuat/dia-danh-bac-lieu-viet-bang-chu-han-6267.html
https://www.facebook.com/media/set/?set=a.306131616719111&s=15&_rdr
https://www.facebook.com/media/set/?set=a.327426397406448.1073742061.230894217059667&type=3&_rdr