Welcome to Nguyễn-Thái-Học Foundation   Click to listen highlighted text! Welcome to Nguyễn-Thái-Học Foundation

Dấu vết Nam Á trong Cộng đồng Sơn Việt thời Tam Quốc


Trần Vy

Sơn Việt là tên chung chỉ những người sinh sống trong vùng sơn cước thuộc Hoa Nam. Danh xưng này được dùng rộng rãi vào thời Hán mạt và Tam quốc.

Theo Lã Tư Miễn (Lu Simian),(1) Sơn Việt trong lòng Đông Ngô sinh sống trải dài từ Dương Châu (sát bờ Nam Trường Giang) đến tận Giao Châu. Ông cho rằng Sơn Việt chủ yếu là người Hoa Hạ trốn vào núi sống lẫn với dân địa phương đã Hán hóa. Tại khu vực Bắc nước Ngô (Chiết Giang, Giang Tây, Phúc Kiến, An Huy… nay) dân miền cao chống chính quyền được sử sách chép rõ là Sơn Việt, còn vài khu vực khác bao gồm cả vùng núi Giao Châu, cư dân dù chỉ bị gọi là “dân” hoặc “giặc” vẫn được cụ Lã xếp vào cộng đồng này. Do Sơn Việt rất dễ hòa hợp với xã hội và quân đội Đông Ngô nên cụ Lã nghĩ rằng họ không hẳn là những người búi tóc cao nói tiếng như chim hót. Đối với cụ Lã, nhóm Hoa Hạ cư trú ở đất Di vẫn thường bới tóc, còn thông tin về tiếng nói ríu rít như chim của họ chỉ là miêu tả cầu kỳ của Hậu Hán Thư.(2)

Ngô Xuân Minh (Wu Chunming)(3) cũng trích dẫn cổ thư để tường thuật hoạt động của các nhóm phi Hoa ở Giang Nam từ hai triều đại Thương-Chu, trong đó ông có đề cập sự tái xuất hiện của dân bản địa dưới danh xưng Sơn Việt vào giai đoạn Hán mạt. Theo ông, sự nghiệp Hoa hóa qua các đời Tần Hán không dẫn đến việc tuyệt tích truyền thống bản địa. Các yếu tố địa phương không chỉ lưu lại trong chính cộng đồng Hoa Bắc di cư mà còn hồi sinh sống động qua các cuộc nổi dậy của miêu duệ Bách Việt. Họ là con cháu của những kẻ từng trốn vào rừng núi để chống lại chính sách dịch chuyển dân cư về phía Bắc của nhà Hán. Ngô Xuân Minh không quá lý tưởng về sức mạnh đồng hóa của văn minh Hoa Hạ như Lã Tư Miễn, người có lẽ phần nào chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc. Một mặt, ông cho rằng thế hệ mới của người Trung quốc tại Hoa Nam là sự dung hợp giữa Hoa và Việt. Mặt khác, ông cho rằng giống dân bản địa không hoàn toàn biến mất mà từ đời Đường trở đi, phần còn lại của nó phát triển thành các nhóm man di Khê Động và Động Liêu…Cuối cùng, đến thời hiện đại, họ trở thành các nhóm sắc tộc Xa, Dao, Lê ở Đông Nam và Thái, Bố Y, Đồng, Thủy, Tráng ở Tây Nam.(4)

Trong các sắc tộc ông Ngô nói đến thì hiện nay người Xa, Dao nói tiếng Hmong-Mien; người Lê, Thái, Bố Y, Đồng, Thủy, Tráng nói tiếng Kra-Dai. Nhưng đó là chuyện bây giờ. Cách đây 1700 năm không hẳn Sơn Việt chỉ gồm những thành phần người và ngôn ngữ vừa kể. Có những thành phần, hoặc đã biến mất, hoặc chỉ còn lại dấu vết mờ ảo phải nhọc công dò dẫm để lần ra.

Những điều Ngô Xuân Minh khái quát đều hiển hiện ở Giao Chỉ và Cửu Chân. Để đồng hóa các sắc dân phi Hoa, Đông Hán Quang Vũ đế đã đưa 300 cừ súy Giao Chỉ về Linh Lăng (nay thuộc Hồ Nam), ông đã hành động tương tự như Tây Hán Vũ đế dời dân Đông Âu và Mân Việt lên bình nguyên Giang Hoài. Bà Triệu mang họ Hán, có lẽ do quý tộc phải đăng ký hộ tịch nên cần chọn tính danh, nhưng sự kiện dùng voi trận, phương tiện chiến tranh nằm ngoài truyền thống quân sự Trung Nguyên, chứng tỏ Sơn Việt Cửu Chân vẫn sống trong không gian văn hóa riêng của mình. Mãi đến đời Tấn, Đào Hoàng (khoảng thập niên 280) vẫn báo cáo rằng cần thông dịch nhiều lần để giao tiếp với cư dân Giao Châu. Ngôn ngữ, tức văn hóa này, chưa bao giờ mất đi mà liên tục biến đổi để tồn tại rồi sinh trưởng phồn tạp không ngừng đến ngày nay.

Sơn Việt không có chữ viết nên bài khảo cứu dưới đây sẽ soi vào vài vệt ngôn ngữ lẻ loi, đặc biệt là nhân danh và địa danh được phản ánh bởi sách sử Trung Hoa, để tìm xem thành phần nổi bật của Sơn Việt có thể là nhóm người nào.

Qua Tam Quốc Chí, chúng ta có thể lọc ra danh tính của một số thủ lĩnh Sơn Việt như: Phan Lâm (潘臨), Bành Hổ (彭虎), Bành Ỷ (彭綺), Bành Đán (彭旦), Phí Sạn (費棧), Vưu Đột (尤突), Tổ Lang (祖郎), Nghiêm Bạch Hổ (嚴白虎), Kim Kỳ (金奇), Mao Cam (毛甘), Hoàng Loạn (黃亂), Thường Câu (常俱). Tất cả các vị trên đều mang họ Trung Hoa. Các tên như Lâm (臨, chiến xa), Hổ (虎, cọp), Ỷ (綺, lụa hoa), Đán (旦, buổi sáng), Bạch Hổ (白虎,cọp trắng), Kỳ (奇, sự vật kỳ lạ), Cam (甘, ngon ngọt) theo chúng tôi là tương đối bình thường mặc dù vẫn phảng phất nghi vấn rằng “Hổ” và “Bạch Hổ” không thể hiện tư chất cá nhân mà thể hiện tên gọi vật tổ của các bộ tộc hay bộ lạc thờ cọp hoặc cọp trắng. Các tên Đột (突, ống khói), Sạn (棧, đường lát gỗ, cầu treo, nhà trọ), Loạn (亂, tình trạng bất an), Câu (俱, cùng, đều) thì không phù hợp lắm để đặt tên người. Nhiều khả năng chúng là ký âm của những từ địa phương nào đó. Riêng tên Lang (郎, chức quan, đàn ông) mang đủ tính chất Hoa Hạ đẹp đẽ, tuy nhiên, khi đi sau âm “Tổ” thì kết nối “Tổ Lang” lại trở thành hợp âm khá quen thuộc trong một vài ngôn ngữ phi Hoa.

Dưới đây chúng ta xem xét kỹ hơn các nhân danh nghe hơi nghịch tai này.

Phí Sạn 費棧

Tên Phí Sạn xuất hiện trong Truyện Lục Tốn, Ngô Thư, Tam Quốc chí như sau:

Quyền đem con gái của người anh là Sách gả cho Tốn, mấy lần hỏi (Tốn) về thời cuộc, Tốn kiến nghị rằng: “Hiện nay bọn anh hùng cát cứ vững chắc, lũ sài lang nhòm ngó, thắng địch bình loạn, quân không đông sẽ không thể xong việc. Mà giặc núi tàn độc từ lâu, ỷ vào đất hiểm sâu. Nếu nơi gan ruột chưa an thì khó chinh phạt nơi xa, phải làm sao khuếch trương được hàng ngũ quân đội, tuyển chọn lính tinh nhuệ.” Quyền chấp nhận kế này, cho (Tốn) đảm chức Hữu Bộ đốc dưới trướng. Gặp lúc tướng giặc Phí Sạn ở Đan Dương nhận thao ấn của Tào công, khích động người Sơn Việt làm nội ứng, Quyền sai Tốn tảo trừ Sạn. Băng đảng của Sạn đông mà quân đi đánh ít, Tốn bèn gia tăng cờ lọng, phân bố hiệu lệnh, ban đêm nấp trong hang núi, nổi trống tiến lên, đúng khi ấy phá tan quân giặc. Bèn xếp đặt lại công việc ở ba quận phía Đông, người khỏe mạnh dùng làm binh, người yếu tổ chức thành hộ, lấy được lính giỏi mấy vạn người. (Để) quét sạch dơ bẩn lâu năm, (Tốn) đi đến đâu chỉnh đốn thanh trừng đến đó, xong kéo quân về đóng đồn tại Vu Hồ.(5)

Người lãnh đạo nổi dậy tên Phí Sạn, vốn không rõ nghĩa trong Hán ngữ. Đối với dân Sơn Việt, thực sự Phí Sạn có nghĩa là gì?

Phí 費: Âm Hán thượng cổ (OC) theo Zhengzhang /*pʰɯds/
            Âm Hậu Hán (LH): /pʰʉs/(6)
            Âm Hán trung cổ (MC) theo Zhengzhang: /pʰʉiH/
Sạn 棧: Âm Hán thượng cổ (OC) theo Zhengzhang:/*zreːnʔ/
            Âm Hậu Hán (LH) theo Schuessler: /dzanB/
            Âm Hán trung cổ (MC) theo Zhengzhang: /d͡ʒˠɛnX/

Trần Thọ (233 – 297) viết Tam Quốc chí tại Lạc Dương vào đầu thời Tây Tấn (khoảng nửa sau thế kỷ III), đó là giai đoạn quá độ giữa âm Hán Thượng cổ và Trung cổ. Giai đoạn này Schuessler gọi là Hậu Hán (Later Han LH, thế kỷ II & III) và Hán Tây Bắc cổ (Old North West ONW, khoảng thế kỷ IV & V).(7)

Bỏ qua phần thanh, Phí Sạn – Phưs Gian hoặc Phưi Chơen rất gần với một âm Mon-Khmer chỉ “con rắn”. Ta tra xét âm rắn trong các thứ tiếng Mon-Khmer dưới đây:

Proto Mon-Khmer: /*[b]saɲʔ/ 
Proto Khasic: /*bsəɲ/
Proto Palaungic: /*psəɲ/ 
Proto Vietic: /*p-səɲʔ/
Lyngngam (Khasic): /bəseɲ/
Pnar (Khasic): /psaɲ/
Khmer Surin (Khmeric): /msaɲ/ 
Chứt (Vietic): /pəsíːɲ/

Tạm lập đẳng thức về âm và nghĩa: phưs-gian = phưi-chơen = *[b]saɲʔ (Proto Mon-Khmer) = /p-səɲʔ/ (Proto Vietic) = rắn (Kinh hiện đại).

Rất đặc biệt khi âm “rắn” được ghi lại bằng chữ Nôm là 𧋻 gồm “trùng 虫” biểu ý và “lận 吝” biểu âm. Không rõ chữ Nôm “rắn 𧋻” hình thành tại Giao Chỉ từ lúc nào nhưng nhiều khả năng là rất sớm, khi người Hoa Hạ còn phát âm 吝 như /*mə.rə[n]-s/ (Baxter-Sagart).

Vậy nhiều khả năng Phí Sạn(8) chính là con rắn, là tên bộ lạc do vị đầu lĩnh Sơn Việt tự xưng khi giao thiệp với người Ngô. Có thể giả thiết rằng cộng đồng bản xứ hùng mạnh nhất đương thời của quận Đan Dương đã nói một thứ tiếng Nam Á mà ngữ chi Nam Á đó nay không tồn tại nữa. Thông tin này không phủ nhận các nhóm dân Nam Đảo, Kra-Dai hay Hmong-Mien cũng từng sinh sống tại đây và cũng từng liên minh với thủ lĩnh Rắn.

Người Thái gọi năm Rắn (Tỵ) là /maˈsěŋ/, một chỉ dấu thể hiện việc họ tiếp thu tên 12 con giáp từ các sắc dân Nam Á. Tiếng Thái gọi rắn là /ˈŋuu/ hay /ˈnâak/ hay /ˈwaan/. Người Malay gọi rắn là /ular/

TỔ LANG  祖郎

Tên Tổ Lang xuất hiện trong mục Tôn Phụ, phần Truyện Tông Thất, Ngô Thư, Tam Quốc chí như sau:

Tôn Phụ tên tự là Quốc Nghi, là em của Bí vậy, (ông) từng làm Dương Vũ Hiệu úy giúp Tôn Sách dẹp yên ba quận. Sách chinh phạt bảy huyện của (quận) Đan Dương, sai Phụ đóng đồn ở phía Tây để cự Viên Thuật đồng thời chiêu dụ dân còn lại và tập hợp người xiêu tán. Lại từng theo Sách đánh Lăng Dương, bắt sống bọn Tổ Lang.(9)

Tổ 祖: Âm Hán thượng cổ (OC) theo Zhengzhang: /*ʔsɑːʔ/
           Âm Hậu Hán (LH) theo Schuessler: /tsɑB/
Lang 郎: Âm Hán thượng cổ theo Zhengzhang:/*rɑːŋ/
               Âm Hậu Hán (LH) theo Schuessler: /lɑŋ/

Vậy Tổ Lang thời cổ đại phát âm gần như hsaah raang, thời Hậu Hán đọc gần như tsa lang.

Âm “trăn” (python) chỉ “con rắn lớn” trong các ngôn ngữ Mon-Khmer như sau:

Pre-Proto-Mon-Khmer: /*tu1lɑn/
Proto Bahnaric: /*klɑn/
Proto Katuic: /*talɑn/
Proto Khasic: /*tʰlən/
Proto Vietic: /*k-lən/
Khmer cổ: /tlɑnn/
Tonga (Aslian): /tɑlen/
Pacoh (Katuic): /tulan/
Khasi (Khasic): /thlen/
Khmer Surin (Khmeric): /thlɑn/
Nyakur (Monic): /khlɑn/
Car (Nicrobaric): /tulɑn/
Nancowry (Nicrobaric): /tulɑ:n/
Maleng (Vietic): /kalɑn/

Kinh Việt: trăn. Đây là âm hiện đại, tự điển Việt Bồ La trang 803 còn ghi âm cận đại là tlan, con tlan.

Người Hoa thời cổ phát âm “Tổ Lang – hsaah raang” khá giống cách phát âm /*klɑn/ của người Bahnaric cổ hay /*k-lən/ của Việt cổ, thời Hậu Hán lại phát âm thành tsa lang tương tự âm của Proto Katuic, Tonga và cũng gần giống cách phát âm của các tộc Nam Á khác. Phụ âm k và t có thể chuyển hóa với nhau trong nhiều trường hợp, gần gũi với chúng ta nhất, dễ thấy nhất, chính là chuỗi biến âm Vietic: *k-lən -> tlɑn -> trăn. Âm hs của Hán thời cổ đã chuyển thành ts vào thời trung cổ. Hai phụ âm tương ứng trong ngôn ngữ Nam Á chính là k và t. Chúng cùng xuất hiện trong nhiều chi ngữ Mon-Khmer khác nhau.

Có thể tạm lập đẳng thức âm và nghĩa tương đối như sau: hsɑɑh rɑɑng = tsa-lɑng = *k-lən (Proto Vietic) = talan (Tonga) = tlɑn (Kinh Việt cận đại) = trăn (Kinh hiện đại)

Ở đây, âm chính của các từ Mon-Khmer là “lan” trong khi phát âm chuẩn của 郎 lại như “lang”. Biến chuyển phụ âm cuối n <-> ng có khả năng xảy ra trong hiện thực không? Tất nhiên là có! Hiện nay người Tương và Ngô vẫn đọc 郎 là “lan”. Người Hoa hiện đại vẫn phiên tên nước Iran là 伊朗 tức Y Lãng (yi-lang). Người Nam Việt dù phân biệt chính tả giữa “lan” và “lang”, nhưng họ phát âm cả hai đều như nhau: /laŋ/.

Vậy Tổ Lang là Tông soái(10) chỉ huy một cộng đồng nói tiếng Nam Á vốn thờ “trăn” làm vật tổ.

Vưu Đột 尤突

Tên Vưu Đột xuất hiện trong Truyện Hạ Tề, Ngô Thư, Tam Quốc chí như sau:

Năm thứ hai mươi mốt, người Bà Dương là Vưu Đột nhận thao ấn của Tào Công, khiến dân làm giặc, các huyện Lăng Dương, Thủy An, Kinh đều hưởng ứng Đột. Tề cùng Lục Tốn đánh bại Đột, chém mấy nghìn thủ cấp, dư đảng sợ hãi chịu khuất phục, ba huyện thuộc quận Đan Dương đều đầu hàng, (nhân đó) chọn được tám nghìn tinh binh.(11)

Vưu 尤: Âm Hán thượng cổ theo Baxter-Sagart: /*[ɢ]ʷə/ (gu-ơ)
              Âm Hậu Hán theo Schuessler: /wu/
              Âm Hán trung cổ theo Zhengzhang: /ɦɨu/ (hư-u)

Âm chỉ “khỉ” trong các ngôn ngữ Mon-Khmer như sau:

Proto Mon-Khmer: /*swaa?/
Proto Bahnaric: /*hwa/
Proto Khmuic: /*hwaʔ/
Proto Palaungic: /*hwaaʔ/
Sre (Bahnaric): /hwa/
Sedang (Bahnaric): /hva/
Semai (Aslian): /høl/
Bahnar (Bahnaric): /hwaa/
Khmer (Khmeric): /swaa/
Phong (Khmuic): /wa:/
Mang (Mangic): /huj/
Nyakur (Monic): /hnúuj/
Palaung (Palaungic): /hva/

Có thể xem, một cách tương đối, thời Tam quốc như giai đoạn chuyển đổi giữa âm Hán Thượng cổ và Hán Trung cổ. Đặt âm Hán Thượng cổ /*[ɢ]ʷə/ (gu-ơ) cạnh âm Proto Bahnaric /*hwa/ (hu-a) hay âm Proto Khmuic /*hwaʔ/ (hu-ah) ta thấy chúng chỉ là một. Nếu có khác nhau chút ít thì chỉ vì mỗi tộc người có kỹ thuật phát âm mỗi khác nhau. Sang thời Hậu Hán và Trung đại, trong khi đa số các tộc Nam Á vẫn bảo lưu phần nào âm cũ, người Hoa đã đọc “vưu 尤” thành /wu/ và /ɦɨu/ (hư-u). Dù phát triển trong môi trường ngữ âm riêng biệt, ta thấy âm Hán hư-u vẫn chưa thoát khỏi cái bóng của âm Semai (Aslian) /høl/ (hưl) hay âm Mang (Mangic) /huj/ (hu-y).

Đột突: Âm Hán thượng cổ theo Zhengzhang: /*duːd/
            Âm Hậu Hán theo Schuessler: /duət/        
            Âm Hán trung cổ theo Zhengzhang: /duət̚/

So với một âm khác cũng chỉ “khỉ” trong các ngôn ngữ Mon-Khmer:

Proto Mon-Khmer [A]: /*ɗuuk/
Proto South Bahnaric: /*do:k/
Proto Bahnaric: /*ɗok/
Proto Katuic: /*ɗɔk/
Semai (Aslian): /dɔʔ/
Halang (Bahnaric): /dok/
Stieng (Bahnaric): /do:k/
Chrau (Bahnaric): /doːʔ/
Thavung (Vietic): /do:/
Kinh Việt: độc, đột

Tên “Vưu Đột”, tiếng Kinh Việt hiện đại chính là “khỉ đột”, rất thú vị. Ông ta nhiều khả năng là lãnh đạo của một bộ lạc thờ vật tổ “khỉ”. Nó hé lộ cho chúng ta biết nhiều điều. Nếu các tộc nói tiếng Khmuic và Palaungic thiên về dùng /hwa/ thì các tộc Bahnaric, Katuic, Aslian, Vietic lại dùng /dok/. Như thế cộng đồng Sơn Việt rất đa tạp, gồm nhiều bộ lạc Nam Á khác nhau. Cũng nên biết hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều đền thờ “hầu vương” tại Hoa Nam.

Thường Câu 

Tên Thường Câu xuất hiện trong Truyện Chung Ly Mục, Ngô Thư, Tam Quốc chí như sau:

(Mục) Đã từng làm Thừa tướng Trưởng sử, sau chuyển sang chức Ty trực, lại đổi thành Trung Thư lệnh. Nhân lúc sơn dân ba quận Kiến An, Bà Dương, Tân Đô nổi loạn, Mục được điều làm Giám quân Sứ giả, dẹp yên đảng giặc. Tướng phỉ là bọn Hoàng Loạn, Thường Câu mang bộ hạ ra sung vào quân đội. (Mục được) phong Tần Đình hầu, chức Việt Kỵ Hiệu úy.(12)

Thường常:  Âm Hậu Hán theo Schuessler: /dzaŋ/
                    Âm Hán trung cổ theo Li Rong: /ʑiaŋ/ (ziang)
Câu 俱:  Âm Hậu Hán theo Schuessler: /kɨo/
              Âm Hán trung cổ theo Li Rong: /kio/ (kiô)
              
Hãy xem vài âm Nam Á dưới đây:

Proto Vietic: /*c-guːʔ/
Proto Pong: /*tkuː/
Proto Katuic: /*hŋkaw/
Proto Bahnaric: /*ckaw/
Ngeg (Katuic): /haŋkaw/
Sapuan (Bahnaric): /cakaw/
Chứt (Vietic): /cəkuː/
Kinh Việt: gấu

Có thể tạm lập đẳng thức: dzang-kưô = /*c-guːʔ/ (Proto Vietic) = /cəkuː/ (Chứt) = gấu (Kinh Việt)

Vậy Thường Câu là thủ lĩnh của bộ lạc thờ con “gấu”.

Hoàng Loạn 

Tên Hoàng Loạn xuất hiện trong Truyện Chung Ly Mục, Ngô Thư, Tam Quốc chí. Đoạn văn đã được trích dịch bên trên.

Hoàng 黃: Âm Hậu Hán theo Schuessler: /ɣuɑŋ/
                  Âm Hán trung cổ theo Wang Li: /ɣuɑŋ/
Loạn 亂: Âm Hậu Hán theo Schuessler: /luɑnC/
               Âm Hán trung cổ theo Wang Li: /luɑnH/   

Người thời Tam Quốc phát âm “Hoàng Loạn guang-luan” gần như âm “Quan Lang 官郎” của chúng ta, chỉ có điểm khác nhỏ do hiện tượng đổi chỗ phụ âm cuối. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép rằng “quan lang 官郎” là danh xưng của con trai Hùng vương. Thời trung đại, người Hoa đọc官郎 là kuan-lang. Thời Pháp thuộc, chức danh đứng đầu tỉnh Mường (gần trùng với tỉnh Hòa Bình hiện nay) là “Chánh Quan Lang”.

Như vậy, Hoàng Loạn có thể là tên chỉ chung tầng lớp lãnh đạo của những đơn vị cư dân nói tiếng Nam Á.

Đan Dương 丹陽

Đan Dương cũng là tên kinh đô cũ của nước Sở. Địa danh này rất xưa và có giả thiết đã định vị cố đô Sở tại thị trấn Đan Giang khẩu thuộc tỉnh Hồ Bắc. 

Với tính chất nằm gần sông, có thể suy luận rằng người Sở đặt tên Đan Dương để hàm ý kinh đô nằm về phía bắc sông Đan. Tuy nhiên như thế rất khó cắt nghĩa vì sao vùng cao nguyên Nam Trường Giang thuộc Dương Châu thời Đông Hán (một phần tỉnh An Huy nay) cũng mang tên này dù cách rất xa con sông nói trên.

Xoay qua cách khác, có thể nào chúng ta hiểu Đan Dương theo nghĩa đen là “mặt trời đỏ”? Liệu cách đặt địa danh mang tính chất biểu trưng có xa lạ với tư duy còn hồn hậu của văn minh Hoa Hạ đương thời? Để hiểu tại sao người Sở và khu vực Hoa Nam thường hay dùng địa danh này chúng ta cần so sánh tính chất của “Đan Dương” với tính chất tên gọi các kinh đô khác vào thời nhà Chu.

Nhà Chu có các kinh đô Cảo Kinh (鎬京), Phong Kinh (灃京) và Lạc Ấp (洛邑). Cảo nay chỉ còn được hiểu như một địa danh tối cổ. Phong Kinh có nghĩa “Kinh đô bên sông Phong”, Lạc Ấp có nghĩa “Đô thành bên sông Lạc”.

Kinh đô nước Triệu là Tấn Dương (晋陽) và Hàm Đan (邯鄲). Tấn Dương tức thành phố nằm về bờ bắc sông Tấn. Hàm Đan được giải thích như là nơi chấm dứt của rặng Hàm sơn, hoặc Hàm và Đan là nơi mặt trời mọc và lặn.

Kinh đô nước Ngụy có An Ấp (安邑) và Đại Lương (大梁). An Ấp có nghĩa “Kinh đô an bình”, Đại Lương hàm ý kinh thành được xây trên vùng đất cao rộng.

Kinh đô nước Tề có Doanh Khâu (營丘) và Lâm Truy (臨淄). Doanh Khâu có nghĩa “Đồi đóng quân” hoặc “Khu cư dân phồn thịnh”,  Lâm Truy có nghĩa “Đối diện sông Truy”.

Kinh đô nước Tần là Hàm Dương (鹹陽) tức “Tất cả đều dương”. Có giải thích cho rằng do thành phố nằm phía Nam núi Cửu Tông và phía Bắc sông Vị, tức hai lần “dương”: Cửu Tông Dương hoặc Vị Dương. Vì cả hai đối chiếu vị trí đều là “dương” nên gọi “Hàm Dương”. Còn giải thích khác cho rằng Hàm Dương là tên ghép do Tần Hiếu công đặt ra khi kết hợp tên gọi hai địa phương Hàm Đình và Dương Lý.

Dễ thấy phần lớn tên đô thành đời Chu hoặc thể hiện mong ước thái bình như An Ấp, hoặc miêu tả vị trí tương đối với núi và sông như Lâm Truy, Hàm Dương, Lạc Ấp… Hiếm hoi hơn là danh xưng chỉ định tính chất của cuộc đất như Doanh Khâu, Hàm Đan… Do vậy, có thể nói “Đan Dương – Mặt Trời Đỏ” là quá sức huê dạng giữa lúc đời sống tinh thần của Trung Nguyên hãy còn sơ khai mộc mạc. Dưới đây chúng ta tìm hiểu xem “Đan Dương” có âm tối cổ như thế nào, đồng thời xem chúng liên hệ ra sao với ngôn ngữ của các tộc người đang sinh sống tại phía nam Trung nguyên.

Đan 丹: Âm Hán thượng cổ theo Zhengzhang: /*taːn/
Dương 陽: Âm Hán thượng cổ theo Zhengzhang: /*laŋ/

Vậy Đan Dương thời cổ đại đọc là taanlang.

Đối chiếu với âm diễn tả khái niệm “con rắn lớn” trong các ngôn ngữ Mon-Khmer đã liệt kê tại mục Tổ Lang chúng ta có thể xác lập đẳng thức tương đối về âm và nghĩa: Đan Dương = taanlang (Hán cổ) = talan (Proto Katuic) = tlan (Kinh Việt cận đại) = Trăn (Kinh Việt hiện đại).

Xà vương miếu tại Phúc Kiến
(https://www.chinadaily.com.cn/china/2016-08/11)

Như thế, cựu đô Đan Dương nước Sở không hẳn có nghĩa “Mặt Trời đỏ”. Nó linh hiển hơn vì mang nghĩa “trăn”, “rắn lớn”, “rắn thần”, “rắn thiêng”…Nó gần đồng nghĩa với “Thăng Long”, tôn danh kinh thành Đại Cồ Việt do một người Mân, sắc dân thờ rắn, tên Lý Công Uẩn nghĩ ra.

Những giả thiết trên đây không có gì quá lạ lẫm vì từ năm 2007, Axel Schuessler, nhà ngôn ngữ học Mỹ, đã nhận ra rằng địa danh Kinh Sở vốn có nguồn gốc từ các âm Nam Á. Kinh 荊 có nghĩa cây bụi hoặc mận gai, Sở 楚 có nghĩa bụi gai, còn gọi là mẫu kinh. “Kinh” với âm cổ /*kreŋ/ có thể so với âm Khmer /creəŋ/ chỉ vật gì tua tủa, dựng đứng.(13) “Sở” với âm cổ /*tshraʔ/ có thể so với âm Proto Monic /*jrlaaʔ/ vốn chỉ gai hoặc tre gai.(14)

Thăng Long, dù có nghĩa “rồng bay lên” nhưng về mặt ngữ học, nó chỉ là một dạng hoán vị nguyên âm (vowel metathesis) của từ chỉ con trăn: /tu1lan/ (Pre-Proto-Mon-Khmer) -> /tulan/ (Pacoh, Car, Nancowry) -> /talun/ (Jah Hut) -> Thăng Long.



Chú thích:

(1) Lã Tư Miễn (1884 – 1957): sử gia Trung quốc, từng giảng dạy tại Đại Học Quang Hoa, Thượng Hải.
(2) Xem Lã Tư Miễn, Tam Quốc sử thoại, Châu Hải Đường dịch, Nxb Hội Nhà Văn (2023), trang 298 -313.
(3) Wu Chunming 吴春明 (sinh năm 1966): giáo sư sử học Trung quốc, từng giảng dạy tại Đại Học Hạ Môn, Phúc Kiến. Năm 2014, ông bị kỹ luật và không còn được phép đứng lớp. Hiện là thủ thư của Viện nghiên cứu biển Nam Trung Hoa của Đại Học Hạ Môn.
(4) Xem Chunming Wu, The Prehistoric Maritime Frontier of Southeast ChinaThe Archaeology of Asia-Pacific Navigation Volume 4, Springer (Open Access), trang 30 – 44. https://link.springer.com/book/10.1007/978-981-16-4079-7
(5) Nguyên văn: 陸遜傳: 權以兄策女配遜,數訪世務,遜建議曰:「方今英雄棊跱,豺狼闚望,克敵寧亂,非衆不濟。而山寇舊惡,依阻深地。夫腹心未平,難以圖遠,可大部伍,取其精銳。」權納其策,以為帳下右部督。會丹楊賊帥費棧受曹公印綬,扇動山越,為作內應,權遣遜討棧。棧支黨多而往兵少,遜乃益施牙幢,分布鼓角,夜潛山谷間,鼓譟而前,應時破散。遂部伍東三郡,彊者為兵,羸者補戶,得精卒數萬人,宿惡盪除,所過肅清,還屯蕪湖。https://ctext.org/sanguozhi/58
(6) Âm này do chúng tôi tự phục dựng theo quan điểm của Schuessler. Vào thời Hậu Hán âm cuối –ts có xu hướng biến thành –s.
(7)
 Các từ Hậu Hán hay Cổ Tây Bắc là thuật ngữ ngôn ngữ học.
(8)
 Phí Sạn: Vị vua Tai thành lập nước Tây Song Bản Nạp theo Đặng Nghiêm Vạn là Phìa Chàn (hoặc Phìa Chân) khá giống tên Phí Sạn nên chúng tôi cũng có ngờ rằng ông là người nói tiếng Kra-Dai. Xem Tư liệu về Lịch sử và Xã hội dân tộc Thái, Đặng Nghiêm Vạn chủ biên, Nxb KHXH (1997), trang 22, 27.
Tuy nhiên người Hoa lại phiên âm Phìa Chàn là Bát Chân (叭真) hoặc Bạch Nhã Chân (帕雅真), người Anh phiên âm thành Phanya Coeng. Chúng không còn gần gũi với Phí Sạn nữa.
(9) Nguyên văn: 孫輔字國儀,賁弟也,以揚武校尉佐孫策平三郡。策討丹楊七縣,使輔西屯歷陽以拒袁術,并招誘餘民,鳩合遺散。又從策討陵陽,生得祖郎等。https://ctext.org/sanguozhi/51
(10) Tông soái: theo trang Baidu nói về Sơn Việt, thủ lĩnh cộng đồng có thể tự xưng Soái, Đại soái hoặc Tông soái. Cũng theo trang này, Tông soái còn hàm ý “thủ lĩnh quân sự” của một thị tộc, ví dụ như “Bành thị Tông soái”. Qua bản dịch Tam Quốc sử thoại, Châu Hải Đường chuyển ngữ “Tông soái” thành “chủ soái người Tông”. Cách hiểu đó không thuận với cách hiểu phổ thông trong thế giới Hoa ngữ. Có lẽ sẽ thuyết phục hơn nếu dịch giả giải thích thêm về ý nghĩa của “người Tông” với cứ liệu rõ ràng.
(11) Nguyên văn: 二十一年,鄱陽民尤突受曹公印綬,化民為賊,陵陽、始安、涇縣皆與突相應。齊與陸遜討破突,斬首數千,餘黨震服,丹楊三縣皆降,料得精兵八千人. https://ctext.org/sanguozhi/60
(12) Nguyên văn: 還為丞相長史,轉司直,遷中書令。會建安、鄱陽、新都三郡山民作亂,出牧為監軍使者,討平之。賊帥黃亂、常俱等出其部伍,以充兵役。封秦亭侯,拜越騎校尉。https://ctext.org/sanguozhi/60
(13) Xem Axel Schuessler, ABC Etymological Dictionary of Old Chinese, University of Hawai’i Press (2007), trang 317. https://bit.ly/3P0Vdwb
(14) Xem Axel Schuessler, sđd, trang 193.

Ghi chú:

– Cơ sở dữ liệu: A Mon-Khmer Comparative Dictionary (Harry Shorto), Minimal Old Chinese and Later Han Chinese (Axel Schuessler) sealang.net, zdic.net, en.wikitionary.org, ctext.org
– Cảm ơn bạn Sông Hàn (Nhóm Cổ sử Từ nguyên) đã trao đổi và hỗ trợ tư liệu để hoàn thiện bài viết.

Nguồn:  https://nghiencuulichsu.com/2023/07/28/dau-vet-nam-a-trong-cong-dong-son-viet-thoi-tam-quoc/


Click to listen highlighted text!