Lý thuyết, hệ tư tưởng, hệ thống cai trị và công cụ nền tảng cho những nhà độc tài Cộng sản
I. Chủ nghĩa Cộng sản
“Bởi vì Tập thể đã lấy đi mọi thứ, mọi tài sản — ngôi nhà của chúng tôi, trang trại của chúng tôi — mọi thứ đều trở thành tài sản của Nhà nước. Mọi thứ trong cuộc sống của bạn, bạn phải làm theo những gì họ bảo. Những người Cộng sản ra lệnh cho mọi người phải nghĩ theo cách họ nghĩ. Không có tự do ngôn luận. Không có tự do về bất cứ điều gì. Nếu bạn nói điều gì đó mà những người Cộng sản không thích, bạn sẽ bị bắt và bị tống vào tù.”
Dan Novacovici, Tù nhân Chính trị ở Romania (1)
Tổng quan
Chương này giới thiệu các thuật ngữ, tài liệu chính, nhân vật lịch sử và sự kiện hình thành nên lý thuyết, hệ tư tưởng và hệ thống cai trị được gọi là chủ nghĩa cộng sản. Lý thuyết về chủ nghĩa cộng sản được phát triển bởi các nhà triết học và bạn bè người Đức Karl Marx và Friedrich Engels, những người đồng sáng tác Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848).* Tác phẩm nổi tiếng này cung cấp lý thuyết và hệ tư tưởng nền tảng cho những nhà độc tài cộng sản trong tương lai, chẳng hạn như Vladimir Lenin, Joseph Stalin, Mao Trạch Đông và Fidel Castro.
Kể từ Cách mạng Bolshevik năm 1917, việc thành lập và duy trì các chính phủ cộng sản đã dẫn đến cái chết của hơn 100 triệu người và sự khuất phục của hàng trăm triệu người khác. Từ Khủng bố Đỏ của Lenin đến triều đại Kim của Bắc Triều Tiên, những nhà cai trị toàn trị trong suốt lịch sử và trên toàn cầu đã thực hiện các phiên bản chủ nghĩa cộng sản của họ với những kết quả thảm khốc. Các chế độ này sở hữu sáu đặc điểm chính: một hệ tư tưởng chính thức, một nhà nước độc đảng chuyên chế**, độc quyền về bạo lực, kiểm soát mọi thông tin và phương tiện truyền thông đại chúng (bao gồm sách, đài phát thanh và truyền hình, phim ảnh và hiện nay là Internet), một nền kinh tế do chính phủ lập kế hoạch và kiểm soát tập trung, và sử dụng một cơ quan an ninh khủng bố do đảng cộng sản kiểm soát.2 Những người nắm quyền sử dụng các đặc điểm này để thực hiện mức độ kiểm soát cần thiết nhằm ngăn chặn hoặc loại bỏ mọi mối đe dọa đối với chế độ cộng sản và giới lãnh đạo toàn trị của nó.
—
* Kể từ năm 1848, Tuyên ngôn Cộng sản của Đảng Cộng sản chưa bao giờ ngừng xuất bản và đã bán được khoảng 500 triệu bản. Con số này gần bằng với bộ truyện Harry Potter, từ năm 1997-2007 đã bán được 500 triệu bản trên toàn thế giới. Kinh thánh vẫn là cuốn sách bán chạy nhất. Kể từ năm 1815, đã bán được hơn 3,7 tỷ bản. https://www.deutschland.de/en/topic/knowledge/200-years-of-karl-marx-seven-facts và https://www.foxbusiness.com/lifestyle/this-book-sold-the-most-copies.
** Theo Từ điển Merriam-Webster, độc đoán ám chỉ sự phục tùng mù quáng trước thẩm quyền của người cai trị và sự tập trung quyền lực vào một nhà lãnh đạo hoặc một nhóm tinh hoa không chịu trách nhiệm trước nhân dân theo hiến pháp.

Định nghĩa
Có sự khác biệt lớn giữa chế độ cộng sản toàn trị và xã hội dân chủ như Hoa Kỳ, đặc trưng bởi chính phủ đại diện, pháp quyền, kinh tế thị trường, xã hội dân sự mạnh mẽ và bảo vệ quyền tự do dân sự của cá nhân. Điều đáng chú ý là chủ nghĩa cộng sản là một hệ tư tưởng (“chủ nghĩa”), một thế giới quan bao trùm mọi thứ, có mục đích định hướng cho mọi lĩnh vực của cuộc sống (kinh tế, gia đình, nông nghiệp, thể thao). Điều này hoàn toàn trái ngược với các xã hội phương Tây dựa trên chủ nghĩa đa nguyên về ý tưởng và niềm tin về những vấn đề này. Nói cách khác, cả tự do có trật tự trong đời sống chính trị (dân chủ) hay tự do có trật tự trong lĩnh vực kinh tế (chủ nghĩa tư bản thị trường tự do) đều không phải là hệ tư tưởng toàn diện. Do đó, việc nêu bật và định nghĩa những so sánh chính là rất hữu ích.***
Chủ nghĩa cộng sản: một hệ tư tưởng và hệ thống quyền lực chính trị tập trung trong đó chế độ độc tài một đảng xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân và kiểm soát phương tiện sản xuất cũng như phân phối hàng hóa và dịch vụ. Như Tuyên ngôn Cộng sản đã khẳng định, “Lý thuyết của những người cộng sản có thể được tóm tắt trong một câu duy nhất: Xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân”. Dưới vỏ bọc của một xã hội bình đẳng, phi giai cấp, các chế độ cộng sản trên thực tế dựa vào vũ lực, sử dụng sự tàn bạo và đàn áp ngôn luận, tôn giáo, hội họp và mọi quyền và tự do khác.
Chủ nghĩa xã hội: một hệ tư tưởng và hệ thống tổ chức chính trị-kinh tế trong đó các ngành công nghiệp lớn và các lĩnh vực khác (ví dụ: chăm sóc sức khỏe, giáo dục) do chính phủ sở hữu hoặc kiểm soát thay vì do các cá nhân và công ty tư nhân. Marx và Engels lập luận rằng chủ nghĩa xã hội là bước trung gian giữa chủ nghĩa tư bản thị trường tự do và mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản. Lenin đồng tình rằng chủ nghĩa xã hội là “giai đoạn đầu tiên” hoặc thấp hơn của xã hội cộng sản.
Chủ nghĩa Marx: Lý thuyết chính trị, kinh tế và xã hội toàn diện của Karl Marx về ‘chủ nghĩa cộng sản’, bao gồm niềm tin về mặt tư tưởng rằng cuộc đấu tranh giữa các giai cấp xã hội là một sự thật của lịch sử và cuối cùng sẽ có một xã hội trong đó có sự bình đẳng tuyệt đối và không có sự phân biệt giai cấp. Marx và đồng tác giả Friederich Engels lập luận rằng cách tiếp cận của họ là khoa học, vốn là điều không thể tránh khỏi trong lịch sử và do đó, mọi phương tiện, bao gồm cả bạo lực và khủng bố hàng loạt, đều được biện minh để đẩy nhanh quá trình hiện thực hóa loại xã hội lý tưởng này.
Chủ nghĩa toàn trị: một hệ thống chính trị trong đó các cá nhân và xã hội hoàn toàn phục tùng một nhà nước toàn năng do một nhà lãnh đạo độc đoán hoặc không thể tranh cãi quản lý.
Dân chủ: hình thức chính phủ trong đó người dân bầu ra các nhà lãnh đạo của họ bằng cách bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử và quyền lực được thực hiện thông qua sự lựa chọn của cử tri, trực tiếp hoặc gián tiếp, thông qua một hệ thống đại diện. Các hình thức chính phủ dân chủ bảo vệ các quyền tự do dân sự [cá nhân] cơ bản như quyền tự do ngôn luận, tôn giáo, hội họp, báo chí và tài sản tư nhân. Các nền dân chủ được đặc trưng bởi pháp quyền (không phải sự cai trị của một cá nhân hoặc đảng phái); phân chia quyền lực (ví dụ: chủ nghĩa liên bang, kiểm tra và cân bằng); và các lĩnh vực lớn của xã hội dân sự chủ yếu hoạt động bên ngoài và đóng vai trò kiểm soát sự kiểm soát tập trung của chính phủ (ví dụ: báo chí, tôn giáo, tổ chức từ thiện, doanh nghiệp tư nhân, tổ chức khoa học, trường học tư nhân). Trên thực tế, hình thức chính phủ dân chủ phổ biến nhất là cộng hòa, nơi công dân lựa chọn các viên chức nhà nước đại diện cho họ.
Chủ nghĩa tư bản: một hệ thống kinh tế đặc trưng bởi quyền sở hữu tư nhân hoặc doanh nghiệp đối với hàng hóa vốn, bởi các khoản đầu tư được xác định bởi các quyết định tư nhân và bởi giá cả, sản xuất và phân phối hàng hóa và tài sản chủ yếu được xác định bởi sự cạnh tranh trong một thị trường tự do. Chủ nghĩa tư bản không phải là một hệ tư tưởng tổng thể (“chủ nghĩa”), mà đúng hơn là hoạt động trong các giai đoạn lịch sử và trong nhiều bối cảnh khác nhau dựa trên ý tưởng rằng các cá nhân có thể và nên có thể lựa chọn cách sử dụng nguồn lực của mình, chẳng hạn như tích lũy của cải, đầu tư vào đổi mới hoặc quyên góp cho các tổ chức từ thiện.
Cộng hòa: một hình thức chính phủ trong đó quyền lực tối cao nằm trong tay một nhóm công dân có quyền bỏ phiếu và được thực hiện bởi các viên chức và đại diện được bầu chịu trách nhiệm trước nhân dân và pháp quyền.
—
*** Các định nghĩa này được tham khảo từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt là các nguồn sau: Richard Pipes, Communism: A History (New York: Random House, 2003), tr. ix-x.; Lee Edwards & Elizabeth Edwards Spalding, A Brief History of the Cold War (Washington, DC: Regnery History, 2016), tr. 7; David Satter, Age of Delirium: The Decline and Fall of the Soviet Union (New Haven, CT, Yale University Press, 1996), tr. 40-41; Merriam-Webster’s Collegiate Dictionary, ấn bản lần thứ 11 (New York: Merriam-Webster, 2009); và Paul Kengor, The Devil and Karl Marx: Communism’s Long March of Death, Deception, and Infiltration (Gastonia, NC: TAN Books, 2020).
Những ý tưởng khác nhau về vai trò của chính phủ và công dân cá nhân
Chúng ta có thể so sánh và đối chiếu nền dân chủ và chủ nghĩa cộng sản thông qua việc xem xét các ý tưởng có trong các tài liệu chính của mỗi bên. 10 tu chính án đầu tiên của Hiến pháp Hoa Kỳ (Tuyên ngôn về quyền của chúng ta) đảm bảo các quyền cơ bản chung cho tất cả công dân. Tuyên ngôn Cộng sản đưa ra 10 biện pháp để đạt được chủ nghĩa cộng sản mà Marx và Engels tuyên bố sẽ xảy ra ở các quốc gia “tiên tiến nhất” khi họ tiến tới chủ nghĩa cộng sản một cách tất yếu. Hình thức chính phủ của Hoa Kỳ bảo đảm các quyền của cá nhân, sau đó họ sẽ lựa chọn cách sống và chu cấp cho bản thân và gia đình. Các hoạt động kinh tế của chủ nghĩa tư bản có xu hướng đi kèm với hình thức chính phủ này. Các văn kiện thành lập của Hoa Kỳ công nhận các quyền con người có nguồn gốc từ tự nhiên và được Chúa ban tặng, đồng thời thành lập chính phủ để bảo đảm các quyền này bằng cách bảo vệ cá nhân khỏi và hạn chế quyền lực của nhà nước. Theo hình thức chính phủ theo hiến pháp, Hoa Kỳ bảo vệ các quyền được thảo luận dưới đây và duy trì các quyền này cùng nhiều quyền khác theo luật pháp và sự đồng thuận của người dân. Mặc dù không phải lúc nào cũng sống theo những lý tưởng này, nước Mỹ, hơn bất kỳ quốc gia nào khác, đã nỗ lực chung để bảo vệ quyền của người dân như đã nêu trong Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp. Tuyên ngôn Nhân quyền được phê chuẩn vào tháng 12 năm 1791 liệt kê 10 tuyên bố về quyền tự nhiên, quyền công dân và quyền tự do cá nhân:
1. Quốc hội không được ban hành luật nào liên quan đến việc thành lập tôn giáo hoặc cấm việc tự do thực hành tôn giáo; hoặc hạn chế quyền tự do ngôn luận hoặc tự do báo chí; hoặc quyền của người dân được tụ họp một cách hòa bình và kiến nghị Chính phủ giải quyết khiếu nại.
2. Một lực lượng dân quân được quản lý chặt chẽ, là cần thiết cho an ninh của một quốc gia tự do, quyền của người dân được giữ và mang vũ khí sẽ không bị xâm phạm.
3. Không một người lính nào, trong thời bình, được đóng quân trong bất kỳ ngôi nhà nào, nếu không có sự đồng ý của Chủ sở hữu, hoặc trong thời chiến, nếu không theo cách do luật định.
4. Quyền của người dân được an toàn về người, nhà cửa, giấy tờ và tài sản của họ, chống lại các cuộc khám xét và tịch thu vô lý, sẽ không bị vi phạm và không có Lệnh nào được cấp, nếu không có lý do chính đáng, được hỗ trợ bởi Lời thề hoặc sự khẳng định, và mô tả cụ thể địa điểm sẽ bị khám xét và những người hoặc đồ vật sẽ bị tịch thu.
5. Không ai bị buộc phải trả lời về tội nghiêm trọng hoặc tội đáng xấu hổ khác, trừ khi có bản trình bày hoặc cáo trạng của Bồi thẩm đoàn, ngoại trừ các trường hợp phát sinh trong lực lượng trên bộ hoặc hải quân, hoặc trong Dân quân, khi thực sự phục vụ trong thời chiến hoặc nguy hiểm công cộng; không ai bị buộc phải chịu hai lần nguy hiểm đến tính mạng hoặc thân thể vì cùng một tội danh; không ai bị buộc phải làm chứng chống lại chính mình trong bất kỳ vụ án hình sự nào, cũng không bị tước đoạt tính mạng, tự do hoặc tài sản, mà không có thủ tục tố tụng hợp pháp; cũng không được lấy tài sản tư nhân để sử dụng công cộng, mà không được bồi thường công bằng.
6. Trong mọi vụ truy tố hình sự, bị cáo phải được hưởng quyền được xét xử nhanh chóng và công khai, bởi một bồi thẩm đoàn công tâm của Tiểu bang và quận nơi tội phạm xảy ra, quận đó đã được luật pháp xác định trước đó và được thông báo về bản chất và nguyên nhân của cáo buộc; được đối chất với các nhân chứng chống lại mình; được tiến hành thủ tục bắt buộc để có được các nhân chứng có lợi cho mình và được Luật sư hỗ trợ bào chữa.
7. Trong các vụ kiện theo luật chung, khi giá trị tranh chấp vượt quá hai mươi đô la, quyền xét xử bằng bồi thẩm đoàn sẽ được bảo lưu và không có sự kiện nào được bồi thẩm đoàn xét xử sẽ được xem xét lại theo cách khác tại bất kỳ Tòa án nào của Hoa Kỳ, ngoài các quy tắc của luật chung.
8. Không được yêu cầu tiền bảo lãnh quá mức, không được áp dụng tiền phạt quá mức, không được áp dụng các hình phạt tàn ác và bất thường.
9. Việc liệt kê một số quyền trong Hiến pháp không được hiểu là phủ nhận hoặc hạ thấp những quyền khác mà người dân nắm giữ.
10. Các quyền không được Hiến pháp ủy quyền cho Hoa Kỳ, cũng không bị Hiến pháp cấm đối với các Tiểu bang, được dành riêng cho các Tiểu bang tương ứng hoặc cho người dân.3

Các biện pháp của Marx và Engels nhằm đạt được một hệ thống cộng sản hoàn toàn trái ngược với Tuyên ngôn Nhân quyền, chưa kể đến Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp Hoa Kỳ. Chủ nghĩa cộng sản tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa cá nhân, gia đình và xã hội dân sự và thiết lập sự kiểm soát của nhà nước đối với xã hội và quyền sở hữu chung đối với tài sản. Tuyên ngôn Cộng sản kêu gọi phá hủy mọi khía cạnh của xã hội “tư sản” cũ bằng bạo lực, cách mạng và “xâm phạm chuyên quyền vào quyền sở hữu”. Mặc dù rất tin tưởng vào lý thuyết của mình, những người sáng lập chủ nghĩa cộng sản thừa nhận rằng “lật đổ bằng bạo lực” và “nội chiến” là cần thiết để đạt được tầm nhìn của họ về một trật tự thế giới mới.4 Ngay từ đầu, Marx và Engels đã hiểu và chấp nhận ý tưởng rằng nhà nước sẽ phải sử dụng bạo lực đối với bất kỳ ai có thể chống lại.
Theo như nêu trong Tuyên ngôn, 10 biện pháp của Chủ nghĩa cộng sản để đạt được một hệ thống mới:
1. Xóa bỏ quyền sở hữu đất đai và áp dụng tất cả tiền thuê đất cho mục đích công cộng.
2. Thuế thu nhập lũy tiến hoặc thuế thu nhập theo bậc thang.
3. Bãi bỏ mọi quyền thừa kế.
4. Tịch thu tài sản của tất cả những người di cư và phiến quân.
5. Tập trung tín dụng vào tay nhà nước, thông qua một ngân hàng quốc gia với tư bản nhà nước và độc quyền độc quyền.
6. Tập trung các phương tiện liên lạc và vận tải vào tay nhà nước.
7. Mở rộng các nhà máy và công cụ sản xuất do nhà nước sở hữu; đưa đất hoang vào canh tác và cải tạo đất đai nói chung theo một kế hoạch chung.
8. Trách nhiệm bình đẳng của tất cả mọi người đối với công việc. Thành lập các đội quân công nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp.
9. Kết hợp nông nghiệp với các ngành công nghiệp sản xuất; xóa bỏ dần mọi sự phân biệt giữa thành thị và nông thôn bằng cách phân bổ dân số đồng đều hơn trên khắp đất nước.
10. Giáo dục miễn phí cho tất cả trẻ em tại các trường công. Xóa bỏ lao động trẻ em trong nhà máy dưới hình thức hiện tại. Kết hợp giáo dục với sản xuất công nghiệp.5
Nền dân chủ Mỹ được xây dựng trên chân lý về bình đẳng của con người và tạo ra một xã hội tự do, trong đó tất cả mọi người đều phát triển thịnh vượng vì tất cả đều được ban tặng quyền bất khả xâm phạm là “sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Chủ nghĩa cộng sản không chỉ bóp méo, loại bỏ và tìm cách làm lại bản chất con người, mà còn thúc đẩy phá hủy và thay thế xã hội tự do và chính quyền tự quản dân chủ bằng một xã hội do nhà nước kiểm soát. Theo chủ nghĩa Marx, chỉ dưới sự cai trị của cộng sản, cá nhân mới thực sự bình đẳng và tự do. Đáng buồn thay, như lịch sử đã chứng minh nhiều lần, điều ngược lại mới đúng.
Chủ nghĩa cộng sản: Từ lý thuyết và hệ tư tưởng đến hệ thống kiểm soát của nhà nước
Chủ nghĩa cộng sản dự đoán một tương lai xã hội chủ nghĩa trong đó mọi người cùng sở hữu các phương tiện và phương thức sản xuất và hàng hóa họ sản xuất ra đều có sẵn cho tất cả những ai cần, nhưng nó đã chứng minh là một lý thuyết có khiếm khuyết cố hữu và không thể đạt được. Marx cũng đưa ra chủ nghĩa hoạt động cách mạng, và lý thuyết của ông trở nên không thể phân biệt được với một hệ tư tưởng cấp tiến yêu cầu nhà nước kiểm soát người dân bằng nhiều công cụ chung cho tất cả các chế độ cộng sản và toàn trị: bạo lực, đàn áp và tước đoạt.
Nhà khoa học chính trị người Mỹ gốc Đức, Carl Friedrich (1901-1984), cho rằng các chế độ toàn trị thể hiện sáu đặc điểm chung: 1) một hệ tư tưởng chính thức; 2) một nhà nước độc đảng; 3) độc quyền về bạo lực; 4) kiểm soát mọi thông tin và phương tiện truyền thông đại chúng (bao gồm sách, đài phát thanh và truyền hình, phim ảnh và bây giờ là Internet); 5) nền kinh tế do chính phủ lập kế hoạch và kiểm soát tập trung, và 6) việc sử dụng dịch vụ an ninh khủng bố do đảng kiểm soát.6 Người cùng thời với Friedrich và cũng là người Mỹ gốc Đức, Hannah Arendt (1906-1975), lưu ý rằng các chế độ này duy trì một yếu tố bổ sung: xác định kẻ thù khách quan.7 Một cái nhìn thoáng qua về bất kỳ nhà nước cộng sản hay toàn trị nào rõ ràng sẽ làm nổi bật từng đặc điểm này. Các nhà lãnh đạo cộng sản và toàn trị đã và đang sử dụng các công cụ chung này để đạt được mức độ kiểm soát của nhà nước cần thiết để buộc kẻ thù chung của họ tuân thủ – bất kỳ ai chống đối nhà nước, đảng phái hoặc nhà lãnh đạo theo bất kỳ cách nào. Về bản chất, một hệ thống toàn trị cộng sản là hệ thống mà trong đó nhà nước trước tiên phải phá hủy mọi khía cạnh của xã hội trước đó (chính trị, tôn giáo, văn hóa và quan điểm riêng của cá nhân về thế giới) để tạo ra một xã hội mới. Nó cấm mọi hoạt động chính trị và xã hội không được chế độ chấp thuận rõ ràng để đảm bảo quyền tối cao và sự tồn tại của chế độ. 8
Trong hầu hết các quốc gia cộng sản trong suốt lịch sử, một nhà cai trị toàn trị, đứng đầu một đảng độc tài được hậu thuẫn bởi một cơ quan an ninh nhà nước áp bức, toàn diện, đã thiết lập và đảm bảo sự duy trì của chế độ. Dưới đây là những ví dụ về cách những cá nhân như vậy điều chỉnh lý thuyết và hệ tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản trong nỗ lực giành quyền lực và kiểm soát người dân của họ.
Sergey Nechayev (1847-1882) là người đầu tiên tin vào lý thuyết cộng sản và lãnh đạo giai đoạn cách mạng của phong trào hư vô Nga từ những năm 1860 đến đầu những năm 1880. Nhóm này thúc đẩy các nguyên tắc cộng sản về chủ nghĩa vô thần, cách mạng và bãi bỏ tài sản tư nhân. 9 Nechayev thúc đẩy cách mạng bằng mọi cách cần thiết, truyền bá các nguyên tắc và lý thuyết của mình cho các thế hệ lãnh đạo toàn trị cộng sản trong tương lai thông qua phong trào hư vô và cuốn sách Giáo lý của một nhà cách mạng (1869) của ông. Cách tiếp cận của Nechayev đã ảnh hưởng đến sự hiểu biết của Vladimir Lenin về một nhà cách mạng.10
Vladimir Lenin (1870-1924) đã áp dụng lý thuyết cộng sản để biến Đế chế Nga thành nhà nước cộng sản đầu tiên. Sử dụng Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của Marx và Engels, Giáo lý của một nhà cách mạng của Nechayev và các tác phẩm của riêng mình làm nền tảng, Lenin ưu tiên bạo lực để mở rộng và thể chế hóa chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô mới. Sau cuộc cách mạng năm 1905 thất bại, Lenin đã giành được quyền lực vào năm 1917 trong cuộc Cách mạng Nga (1917-1922), chứng kiến 7 triệu người thiệt mạng trong sự ra đời đầy bạo lực của quốc gia này.11 Ông đã thiết lập chế độ độc tài một đảng cho nước Nga Xô Viết và thực hiện các biện pháp cộng sản của Marx và Engels, bãi bỏ tài sản tư nhân, hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, tôn giáo và báo chí, và làm im lặng tất cả những người phản đối đảng Bolshevik.12 Lenin đã giám sát việc thành lập cảnh sát mật (Cheka) và Gulag, một hệ thống trại lao động cưỡng bức rộng lớn.
Joseph Stalin (1878-1953) nắm quyền kiểm soát Liên Xô sau cái chết của Lenin vào năm 1924. Dựa trên các hệ tư tưởng của Marx và Lenin, ông đã xây dựng chủ nghĩa Stalin, thúc đẩy nhà nước cảnh sát toàn trị, tạo ra quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng, nông nghiệp tập thể hóa, củng cố nền kinh tế kế hoạch tập trung và tuyên bố Đảng Cộng sản Liên Xô là nhà nước lãnh đạo của cuộc cách mạng cộng sản thế giới.13 Ông mở rộng lực lượng an ninh được thiết kế để đàn áp người dân trong Liên Xô và duy trì vị thế quyền lực của mình. Ông cũng mở rộng hệ thống Gulag, đặc biệt là trong các làn sóng thanh trừng vào những năm 1930 được gọi là Cuộc đại khủng bố của Stalin. Stalin đã loại bỏ một cách có hệ thống mọi kẻ thù, thực tế hay tưởng tượng, trên khắp xã hội Liên Xô. Ông nhắm mục tiêu vào một tầng lớp người cụ thể, kulaks (những người nông dân khá giả hơn một chút). Stalin đã ép buộc 320.000 kulak từ bỏ mùa màng và nhà cửa của họ và đưa họ vào các trại lao động cưỡng bức.14 Sau đó, trong khoảng thời gian 1937-1938, cứ 20 người ở Liên Xô thì có một người bị bắt và hơn 1,9 triệu người bị giam giữ trong Gulag.15 Cuộc Đại khủng bố bao gồm đàn áp có hệ thống, trấn áp mọi bất đồng chính kiến, thanh trừng sắc tộc, giám sát của cảnh sát trên diện rộng và thanh trừng các quan chức chính phủ và quân đội. Số người chết ước tính từ 950.000 đến 1,2 triệu người.16 Sự đàn áp, bạo lực, sự thiếu thốn và động lực của Stalin nhằm kiểm soát hoàn toàn người dân đã dẫn đến cái chết của tới 20 triệu người.17
Mao Trạch Đông (1893-1976) nổi lên như một nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) trong giai đoạn đầu của Nội chiến Trung Quốc vào những năm 1920 và đã áp dụng và bổ sung vào Chủ nghĩa Mác-Lênin. Sau thất bại của chính quyền Quốc dân đảng năm 1949, Mao thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC), một nhà nước độc đảng do Đảng Cộng sản Trung Quốc kiểm soát. Hệ thống toàn trị của Mao, giống như những người đồng cấp Liên Xô của ông, đã sử dụng và dựa vào đàn áp và bạo lực. Phong trào Cải cách Ruộng đất của ông đã chứng kiến vụ sát hại lên đến 3 triệu người.18 Chương trình Đại nhảy vọt (1958-1961), nhằm mục đích đạt được những bước tiến trong công nghiệp hóa, đã dẫn đến nạn đói khiến từ 30 đến 43 triệu người thiệt mạng.19 Từ năm 1966 đến năm 1976, Mao đã phát động Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc, một phong trào tìm cách củng cố chủ nghĩa Mao bằng cách loại bỏ mọi thứ liên quan đến văn hóa tiền cộng sản, chủ nghĩa tư bản và bất kỳ mối đe dọa nào khác đối với sự cai trị của ông. Giai đoạn này chứng kiến một triều đại khủng bố và tàn bạo đã cướp đi sinh mạng của 1-3 triệu người.20 Nhìn chung, các chính sách và hành động của Mao đã khiến từ 40 đến 80 triệu người thiệt mạng.21
Kim Il Sung (1912-1994), được cả ĐCSTQ và Liên Xô giáo dục và đào tạo, là nhà cai trị toàn trị đầu tiên của Bắc Triều Tiên cộng sản. Năm 1945, sau Thế chiến II, các cường quốc đồng minh đã chia Triều Tiên thành hai quốc gia dọc theo vĩ tuyến 38. Liên Xô chiếm đóng Bắc Triều Tiên và thành lập một chính phủ cộng sản. Liên Xô đã bổ nhiệm Kim Il Sung làm lãnh đạo Bắc Triều Tiên thông qua một cuộc bầu cử do Liên Xô tổ chức vào năm 1948. Sau hai năm lập kế hoạch và với sự hỗ trợ trực tiếp từ Liên Xô và ngay sau đó là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Kim đã khởi xướng Chiến tranh Triều Tiên bằng cách xâm lược Hàn Quốc vào tháng 6 năm 1950.22 Khi lực lượng Hoa Kỳ và Liên Hợp Quốc đẩy lực lượng Bắc Triều Tiên về phía sông Áp Lục, Trung Quốc ngày càng lo ngại rằng chế độ Kim sẽ sụp đổ. Mao đã ra lệnh mở một cuộc tấn công lớn với hơn 300.000 quân Trung Quốc vào đầu tháng 11 năm 1950, đẩy quân đồng minh về phía nam vĩ tuyến 38, nơi chiến tuyến sẽ tiếp tục trong ba năm tiếp theo.23 Cuộc chiến thống nhất Triều Tiên dưới chủ nghĩa cộng sản đã gây ra hơn 4 triệu ca tử vong, trong đó có khoảng 2 triệu thường dân.24 Sau chiến tranh, nhà lãnh đạo Triều Tiên phải chịu trách nhiệm về nhiều vụ vi phạm nhân quyền, bao gồm cả việc hành quyết công khai những người đối lập chính trị và thành lập các trại lao động khổ sai.25 Ngày nay, triều đại họ Kim – hiện đang ở thế hệ thứ ba – vẫn lãnh đạo một chế độ cộng sản biệt lập ở miền Bắc nổi tiếng với các vụ vi phạm nhân quyền, nạn đói, nghèo đói và chính sách hạt nhân liều lĩnh.
Hồ Chí Minh (1890-1969), một người theo chủ nghĩa Marx-Lenin tận tụy được đào tạo tại Paris và Moscow, đã lãnh đạo Việt Minh cộng sản chống lại người Pháp trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954), giành quyền kiểm soát Bắc Việt Nam và thành lập một chính quyền cộng sản. Sau chiến tranh, Hồ Chí Minh đã hành quyết từ 3.000 đến 15.000 thường dân Việt Nam để củng cố quyền kiểm soát của mình.26 Sau đó, Hồ Chí Minh đã châm ngòi cho Chiến tranh Việt Nam (1955-1975), còn được gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, để mở rộng chế độ cộng sản của mình trên toàn quốc. Đến năm 1975, từ 1-3 triệu người đã thiệt mạng trong cuộc xung đột khi Bắc Việt Nam và các lực lượng của mình, cùng với sự hỗ trợ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và sau đó là Liên Xô, đã đánh bại Nam Việt Nam và Hoa Kỳ cùng các đồng minh khác của họ.27 Quân đội Bắc Việt Nam nhanh chóng củng cố quyền lực và loại bỏ phe đối lập, hành quyết khoảng 65.000 tù nhân chính trị sau khi Sài Gòn sụp đổ.28 Chính quyền cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục kiểm soát đất nước cho đến ngày nay.
Pol Pot (1925-1998), một nhà tư tưởng Marxist-Leninist và Maoist và là người đứng đầu phong trào Khmer Đỏ, đã lãnh đạo cuộc cách mạng cộng sản của Campuchia. Pol Pot đã lên kế hoạch và tiến hành Nội chiến Campuchia (1967-1975), khiến 250.000 người Campuchia thiệt mạng trong quá trình theo đuổi một nhà nước cộng sản.29 Sau chiến thắng trong nội chiến của Khmer Đỏ năm 1975, ông ta đã tiến hành Diệt chủng Campuchia (1975-1979), giết chết bất kỳ ai hoặc bất kỳ nhóm nào bị coi là chống cộng và là mối đe dọa đối với chế độ của ông ta, đặc biệt là những đối thủ chính trị, trí thức và các nhà lãnh đạo tôn giáo. Pol Pot đã buộc cư dân thành thị vào rừng, bãi bỏ tiền bạc, tôn giáo và gia đình, và tiến hành các cuộc hành quyết hàng loạt. Một nạn đói được gây ra đã khiến khoảng hai triệu người thiệt mạng, tương đương khoảng một phần tư dân số Campuchia năm 1975.30
Fidel Castro (1926-2016), một nhà xã hội chủ nghĩa cách mạng chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx-Lenin, đã thất bại trong nỗ lực đảo chính đầu tiên của mình ở Cuba vào những năm 1950. Sau khi bị giam cầm tại quê nhà và tự lưu vong ở Mexico, Castro đã trở về Cuba cùng người đồng chí theo chủ nghĩa Marx-Lenin Ernesto “Che” Guevara vào tháng 11 năm 1956 để tiến hành chiến tranh du kích chống lại chế độ của Fulgencio Batista, và vào tháng 1 năm 1959 để giành chiến thắng trong một cuộc cách mạng bạo lực dẫn đến hàng nghìn vụ hành quyết tóm tắt.31 Những người cộng sản đã lấp đầy khoảng trống quyền lực; dưới thời Castro, Cuba ngay lập tức bắt đầu hạn chế quyền tự do ngôn luận và báo chí và chính thức trở thành chế độ toàn trị độc đảng vào năm 1965.32 Castro đã hành quyết từ 7.000 đến 10.000 người và giam giữ 30.000 công dân khác ủng hộ Batista.33 Castro cũng trừng phạt những người lên tiếng chống lại chế độ mới; từ năm 1959 đến những năm 1990, hơn 100.000 công dân Cuba đã trải qua cuộc sống trong trại tập trung, nhà tù hoặc các cơ sở khác của Cuba.34 Chế độ cộng sản, bao gồm đàn áp bất đồng chính kiến, quyền tự do ngôn luận và tự do lập hội, vẫn tiếp tục ở Cuba cho đến ngày nay. Cuộc suy thoái kinh tế kéo dài của Cuba đã buộc chế độ cộng sản phải theo đuổi tư nhân hóa nhỏ đối với ngành công nghiệp và cải cách kinh tế hạn chế để duy trì vị thế nắm quyền của họ và ngăn chặn sự sụp đổ hoàn toàn của nền kinh tế.

11 Ngày quan trọng trong Lịch sử Chủ nghĩa Cộng sản
1848 – Xuất bản Tuyên ngôn Cộng sản của Marx và Engels
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản của Karl Marx và Friedrich Engels đã tạo ra lý thuyết chính trị, kinh tế xã hội và hệ tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Cuốn sách nhỏ 30 trang này được một nhà in Đức xuất bản tại London vào tháng 2 năm 1848.35
1917 – Lenin phát động Cách mạng Nga
Sau khi Sa hoàng Nicholas II thoái vị vào năm 1917 và cảm thấy thiếu sự ủng hộ đối với chính phủ lâm thời yếu kém của Nga, Vladimir Lenin và những người Bolshevik đã phát động một cuộc đảo chính và bắt đầu Cách mạng Nga (1917-1922). Sau Cuộc đảo chính của những người Bolshevik vào tháng 11 năm 1917, Lenin và những người Bolshevik đã đánh bại Quân đội Bạch vệ của Cộng hòa Nga trong một cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài năm năm.36 Vào tháng 2 năm 1918, Lenin và những người ủng hộ ông đã củng cố quyền lực và thành lập nhà nước cộng sản độc đảng của Liên Xô, sau này là Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết; vào tháng 3, ông đổi tên Đảng Bolshevik thành Đảng Cộng sản Nga.37
1939 – Đức Quốc xã và Liên Xô ký Hiệp ước Molotov-Ribbentrop
Trước khi Chiến tranh thế giới thứ II nổ ra, Liên Xô đã ký một hiệp ước không xâm lược với Đức. Cả hai quốc gia đều tìm cách đảm bảo rằng không bên nào sẽ tấn công bên kia khi họ xâm lược và chia cắt Ba Lan vào tháng 9 năm 1939. Liên Xô đã buộc Litva, Latvia và Estonia ký các hiệp ước không xâm lược để ngăn chặn chiến tranh, nhưng vẫn xâm lược từng quốc gia sau đó bất chấp các hiệp ước.38 Tương tự như vậy, Stalin đã xâm lược Phần Lan vào tháng 12 năm 1939 và một số vùng của Romania vào năm 1940.39 Năm 1941, Hitler đã phá vỡ Hiệp ước Molotov-Ribbentrop và xâm lược Liên Xô. Chiến thắng của phe Đồng minh trong Thế chiến II đã phải trả giá đắt cho Liên Xô, với tổn thất 8-10 triệu binh lính và hơn 20 triệu thường dân, một phần là do chiến lược trước chiến tranh của Stalin và sự bất tài trong thời chiến cũng như sự can thiệp vào quân đội.40
1946 – Stalin đọc diễn văn tại Moscow và Liên Xô chiếm đóng châu Âu
Sau Thế chiến II, Stalin đã có bài phát biểu tại một cuộc họp của những người trung thành với đảng vào ngày 9 tháng 2, tuyên bố rằng cả hai cuộc Chiến tranh thế giới đều là kết quả của chủ nghĩa tư bản và Liên Xô là lực lượng giải phóng trong mỗi cuộc xung đột.41 Trong khi đọc bài phát biểu “tái tranh cử” này, Stalin tiếp tục phá vỡ lời hứa của mình với các đồng minh trong Thế chiến II và giữ quân đội Liên Xô ở các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng của Đức, Tiệp Khắc, Bulgaria, Ba Lan, Hungary, Romania và các quốc gia vùng Baltic, buộc mỗi quốc gia bị chiếm đóng phải thành lập chính phủ cộng sản.42
1949 – Mao Trạch Đông thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Sau một cuộc nội chiến tàn khốc khiến 6 triệu người Trung Quốc thiệt mạng khi theo đuổi chủ nghĩa cộng sản, Mao Trạch Đông đã giành được kiểm soát ở Trung Quốc.43 Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sau đó xâm lược và chiếm Tây Tạng, vì Mao tuyên bố Trung Quốc có quyền lịch sử để kiểm soát khu vực này.44 Mao cũng thực hiện các chính sách đàn áp như Đại nhảy vọt (1958-62), tự nó đã gây ra khoảng 43 triệu ca tử vong, số nạn nhân lớn hơn cả Hitler và Stalin cộng lại.45 Trong những năm sau đó, Mao đã phát triển các mục tiêu mới để đưa Trung Quốc tiến tới tầm nhìn của ông về một xã hội cộng sản. Ông đã thanh trừng kẻ thù của mình trong Đảng để củng cố quyền lực và tìm cách phá hủy nền văn hóa truyền thống Trung Quốc, thay thế bằng một xã hội cộng sản. Trong Cách mạng Văn hóa, ông đã sử dụng hàng triệu sinh viên trẻ, dễ bị ảnh hưởng làm quân xung kích của mình. Họ được biết đến với cái tên Hồng vệ binh Mao.46 Những sinh viên này đã bạo lực chống lại giáo viên, cha mẹ của họ và thậm chí cả các nhóm Hồng vệ binh khác.47 Cách mạng Văn hóa của Mao kéo dài từ tháng 5 năm 1966 đến cuối năm 1968. Đó là một thời kỳ đen tối của khủng bố và tàn bạo đã cướp đi sinh mạng của 1-3 triệu người.48
1956 – Liên Xô đè bẹp các phong trào giành độc lập ở Đông Âu
Cuộc nổi dậy Poznan ở Ba Lan phản đối chế độ cộng sản, sự chiếm đóng của Liên Xô và tình trạng hỗn loạn kinh tế, với hàng nghìn công nhân đình công cùng với những người Ba Lan khác tham gia vào cuộc nổi loạn toàn diện vì Bánh mì và Tự do.49 Những người cộng sản đã đàn áp cuộc nổi loạn một cách tàn bạo bằng các sư đoàn xe tăng và hơn 10.000 quân.50 Tại Hungary, sinh viên, công nhân và những công dân khác đã cầm vũ khí chống lại chế độ Stalin trong cuộc đấu tranh giành tự do kéo dài gần hai tuần. Để đàn áp cuộc cách mạng, xe tăng Liên Xô đã xâm chiếm Budapest, và 2.502 người Hungary đã thiệt mạng trong cuộc giao tranh đẫm máu trên đường phố, hàng chục nghìn người bị cầm tù và hơn 200 người bị cộng sản hành quyết.51
1961 – Đông Đức xây Bức tường Berlin
Liên Xô ra lệnh bắt đầu xây Bức tường Berlin để bảo vệ “biên giới nguy hiểm” và ngăn chặn người Đông Đức đào tẩu sang phương Tây.52 Bức tường dài 96 dặm và cắt đứt miền Tây dân chủ khỏi miền Đông cộng sản bằng những bức tường bê tông lớn, hàng rào thép gai và tháp canh.53 Một rào cản vật lý giữa Đông và Tây Âu cũng bắt đầu từ phía bắc từ Biên giới Phần Lan về phía nam đến Biển Đen.54
1968 – Người Séc và người Slovak nổi dậy kháng cự với Mùa xuân Praha
Người Séc và người Slovak tham gia vào các cuộc biểu tình quần chúng và biểu tình đòi tự do hóa chính trị khi Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, Alexander Dubcek, chấm dứt kiểm duyệt trong thời gian ngắn. Chẳng bao lâu sau, người dân đòi hỏi nhiều quyền tự do hơn so với “chủ nghĩa xã hội mang bộ mặt con người” của Dubcek cho phép. 55 Trong chiến dịch quân sự lớn nhất kể từ Thế chiến II, Liên Xô và một số quốc gia vệ tinh đã gửi quân đội, xe tăng và máy bay đến để đàn áp các nguyên tắc dân chủ và khôi phục lại hệ tư tưởng và quyền kiểm soát của cộng sản. 56
1975 – Chiến tranh Việt Nam kết thúc
Cuộc chiến thiết lập chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam sau khi quân đội Mỹ rút lui đã khiến 65.000 thường dân Việt Nam bị quân đội Bắc Việt trực tiếp giết hại. 57 Bắc Việt giành chiến thắng, thành lập nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam vào năm 1976 và ngay lập tức áp đặt một hệ thống đàn áp và bạo lực. Những người cộng sản đã buộc người dân Nam Việt Nam vào các trại cải tạo, nơi họ phải chịu đựng sự thiếu thốn và cái chết dưới bàn tay của chế độ cộng sản. Hàng trăm ngàn người đã chạy trốn bằng đường biển, và họ được gọi là thuyền nhân Việt Nam, nhiều người định cư ở Châu Âu và Hoa Kỳ.58
1979 – Liên Xô xâm lược Afghanistan và Giáo hoàng đến thăm Ba Lan
Cuộc xâm lược Afghanistan của Liên Xô đã bắt đầu cuộc chiếm đóng kéo dài 10 năm khiến 800.000-1,5 triệu người Afghanistan thiệt mạng. Những chiến binh tự do Afghanistan, còn được gọi là Mujahideen, được Hoa Kỳ bí mật hỗ trợ, giành chiến thắng trong cuộc chiến và trục xuất lực lượng Liên Xô khỏi quốc gia này vào năm 1989.59 Năm 1979 cũng chứng kiến chuyến thăm đầu tiên mang tính lịch sử của Giáo hoàng John Paul II tới quê hương Ba Lan.60 Giáo hoàng, người đã sống dưới chế độ Quốc xã và Cộng sản ở Ba Lan, đã lên án mạnh mẽ cả hai hệ tư tưởng này và trở thành một nhân vật quan trọng trong sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Ba Lan và phần còn lại của Đông Âu.61 Các chuyến thăm quê hương của John Paul đã tiết lộ với thế giới rằng người dân Ba Lan chưa bao giờ mất niềm tin và đoàn kết trong cuộc phản đối chủ nghĩa cộng sản.62
1989 – Bức tường Berlin sụp đổ và chủ nghĩa cộng sản sụp đổ ở Đông và Trung Âu
Một làn sóng các phong trào quốc gia giành độc lập và tự do đã lan rộng khắp Đông và Trung Âu, cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của Bức tường Berlin và sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản trong khu vực.63 Các phong trào diễn ra ở các quốc gia vùng Baltic, Ba Lan, Hungary, Đông Đức, Tiệp Khắc, Bulgaria và Romania.64

Bản chất của chế độ cộng sản và cách họ duy trì quyền kiểm soát
Các chế độ cộng sản thường sử dụng các công cụ bạo lực, đàn áp và tước đoạt như phương tiện kiểm soát. Các chế độ toàn trị được mô tả ở trên đã phủ nhận các quyền cơ bản của con người đối với công dân của họ khi họ giam cầm, đưa đến các trại lao động hoặc chỉ đơn giản là giết bất kỳ ai phản đối sự cai trị của họ. Hệ tư tưởng cộng sản chịu trách nhiệm cho hơn 100 triệu ca tử vong kể từ khi ra đời vào năm 1917.65
Kết luận
Sự khác biệt giữa hình thức chính phủ dân chủ của Hoa Kỳ và hệ thống cộng sản Liên Xô không chỉ giới hạn ở mối quan tâm về tự do và quyền tự nhiên so với chế độ chuyên chế, bạo lực và đàn áp. Chúng ta cũng có thể đo lường tác động kinh tế và chất lượng cuộc sống của chủ nghĩa cộng sản. Sự thiếu thốn về kinh tế rất rõ ràng trong khối cộng sản. Trong suốt Chiến tranh Lạnh, GDP bình quân đầu người của Hoa Kỳ, một chỉ số về năng suất kinh tế của một quốc gia trên đầu người, luôn vượt xa Liên Xô một cách nhất quán và đáng kể. Năm 1950, GDP bình quân đầu người của Liên Xô là 2.834 đô la trong khi Hoa Kỳ là 9.561 đô la. Đến năm 1990, ngay trước khi Liên Xô sụp đổ, khoảng cách này đã mở rộng, khi GDP bình quân đầu người của Mỹ tăng lên 23.214 đô la trong khi GDP bình quân đầu người của Liên Xô chỉ là 6.871 đô la.66
Ngày nay, hơn 1,5 tỷ người sống dưới các chính quyền cộng sản đàn áp ở Trung Quốc, Cuba, Lào, Việt Nam và Bắc Triều Tiên.67 Năm chế độ này sử dụng các công cụ giống như Liên Xô để duy trì sự kiểm soát của nhà nước. Người ta ước tính rằng hai triệu công dân ở Trung Quốc, chủ yếu bao gồm người Duy Ngô Nhĩ và các dân tộc thiểu số khác, đang bị giam giữ trong các trại “cải tạo” của ĐCSTQ.68 Ngoài ra, Cuba và Bắc Triều Tiên còn giam giữ hàng chục nghìn công dân trong các trại lao động khổ sai giống như hệ thống Gulag của Liên Xô.69
Sources
1. Victims of Communism, “Witness Project: Dan Novacovici”, October 17, 2019, video, 9:59, https://youtu.be/rA6igitW-zc.
2. For communist regimes being characterized by an official ideology, a one-party state, a monopoly on violence, control of information and mass media (books and movies included), and the use of a terroristic secret police to commit terror, see Carl Friedrich, “The Unique Character of a Totalitarian Society,” in The Great Lie: Classic and Recent Appraisals of Ideology and Totalitarianism, ed. Flagg Taylor (Wilmington, DE: Intercollegiate Studies Institute, 2011), 20-21. For information regarding communist regimes and their establishment of a government-planned and controlled economy, see Johann Arnason, “Communism and Modernity,” Daedalus 129, no. 1 (2000): 70, 73, 76, and 8; and Carl Joachim Friedrich and Zbigniew K. Brzezinski, Totalitarian Dictatorship and Autocracy Second Edition (Cambridge: Harvard University Press, 1965), 21-22.
3. “The Bill of Rights,” Amendments 1-10, from the National Archives and Records Administration, accessed November 3, 2021, https://www.archives.gov/founding-docs/bill-of-rights-transcript#toc-the-u-s-bill-of-rights-2. Spelling and punctuation reflect the original transcription from the National Archives website.
4. Karl Marx, Friedrich Engels, Steven Lukes, Stephen Bronner, Vladimir Tismaneanu, Saskia Sassen, and ed. Jeffrey Isaac, The Communist Manifesto (New Haven: Yale University Press, 2012), 83 and The Communist Manifesto, The Marxist.org Archive, https://www.marxists.org/archive/marx/works/1848/communist-manifesto/ch02.htm.
5. Ibid, 91-92. Spelling reflects the cited text.
6. Carl Friedrich, “The Unique Character of a Totalitarian Society,” in The Great Lie: Classic and Recent Appraisals of Ideology and Totalitarianism, ed. Flagg Taylor (Wilmington, DE: Intercollegiate Studies Institute, 2011), 20-21. See also Johann Arnason, “Communism and Modernity,” Daedalus 129, no. 1 (2000): 70, 73, 76, and 85.
7. Hannah Arendt, “Ideology and Terror: A Novel Form of Government,” in The Great Lie: Classic and Recent Appraisals of Ideology and Totalitarianism, ed. Flagg Taylor (Wilmington, DE: Intercollegiate Studies Institute, 2011), 20-21 and Johann Arnason, “Communism and Modernity,” Daedalus 129, no.1 (2000): 70, 73, 76, and 85.
8. Flagg Taylor, “Totalitarianism,” (speech, Victims of Communism Memorial Foundation, September 8, 2021).
9. Sergey Nechayev, Catechism of a Revolutionary (London: Pattern Books, 2020), 2, https://www.google.com/books/edition/Catechism_of_a_Revolutionist/nCcvEAAAQBAJ?hl=en&gbpv=0&kptab=editions.
10. Vladimir Lenin, Speech in Memory of Y.M. Sverdlov,” Moscow March 18, 1919, from Lenin’s Collected Works, 4th English Edition, Progress Publishers, Moscow, 1972 Volume 29, pages 89-94, https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1919/mar/18.htm. This specific quote from Lenin is similar to Nechayev’s description of the “perfect revolutionary” in Catechism of a Revolutionary.
11. Evan Mawdsley, The Russian Civil War (New York, NY: Pegasus Books 2007), 16, https://archive.org/details/russiancivilwar00evan/mode/2up?q=million.
12. Vladimir Lenin, State and Revolution (Russia: 1902), 81, 125, 130. For religious repression, see page 81; for repression of the freedom of press and assembly, see page 125; and for abolishing private property, see page 130. https://www.google.com/books/edition/State_and_Revolution/rl29BwAAQBAJ?hl=en&gbpv=1&kptab=overview&bsq=religion. See also Vladimir Lenin, What Is to Be Done (Russia: 1902) for restrictions on freedom of speech.
13. Isaac Deutscher, Stalin, A Political Biography (New York: Oxford University Press, 1949), 7-9, https://archive.org/details/stalinpoliticalb00deut/page/n7/mode/2up.
14. Robert Service, Stalin, A Biography (Cambridge: Belknap Press of Harvard University Press, 2005), 267.
15. David Hosford, Pamela Kachurin and Thomas Lamont, Gulag: Soviet Prison Camps And Their Legacy, Project of the National Park Service and the National Resource Center for Russian, East European and Central Asian Studies, Harvard University, 2 https://gulaghistory.org/nps/downloads/gulag-curriculum.pdf, and Christopher Andrew and Vasili Mitrokin, The Sword and the Shield: The Mitrokin Archive and the Secret History of the KGB, (New York: Basic Books, 1999), 23-41.
16. Michel Ellman, “Soviet Repression Statistics: Some Comments,” Europe-Asia Studies 54, no. 7 (2002): 1155, https://www.jstor.org/stable/826310.
17. Robert Conquest, The Great Terror: Stalin’s Purge of the Thirties (New York: The Macmillan Company, 1968), 533 and Gill Elliott, The Twentieth Century Dead (London: Penguin Books, 1972), 223-24. Both Conquest and Elliot state Stalin is responsible for at least 20 million deaths. Anton Antonov-Ovseyenko, The Time of Stalin (New York: Harper and Row, 1981), 126. Antonov-Ovseyenko states Stalin killed between 30 and 40 million people. Stephane Courtois, et al., The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1999), 159 and 186. Courtois estimates that at least 6 million individuals perished due to the famine under Stalin. Page 186 estimates that 2 million died in Gulag camps; however, Courtois claims that the Gulag deaths number is inflated. J. Arch Getty, Gabor Rittersporn, and Victor Zemskov’s “Victims of the Soviet Penal System in the Pre-war Years: A First Approach on the Basis of Archival Evidence,” American Historical Review 98 no. 4 (1993): 1017-1049 claims 1,053,829 citizens died in the Soviet camps from 1934 to 1953 not including labor colonies. Michael Ellman estimates that the number rises to 1.7 million Gulag deaths if labor colonies are included in “Soviet Repression Statistics: Some Comments.” For more on famine, see Davies and Wheatcroft, The Years of Hunger: Soviet Agriculture, 1931-1933, as they conclude that famine resulted in the deaths of 5.5 to 6.5 million. See also Stephen Wheatcroft, The Years of Hunger: Soviet Agriculture, 1931-1933 (London: Palgrave Macmillan, 2004), 414. Wheatcroft estimates that 3.6 million died because of the Soviet-caused famine. We have determined that 20 million is the best estimate based on available evidence.
18. Daniel Chirot, Modern Tyrants: The Power and Prevalence of Evil in Our Age (New York: The Free Press, 1996), 187.
19. Archie Brown, The Rise and Fall of Communism (New York: Harper Collins Publishers, 2009), 316-17, and Courtois, 495.
20. Frank Dikotter, The Cultural Revolution: A People’s History, 1962-1976 (New York: Bloomsbury Publishing, 2016), 183-91; Yongyi Song, “Chronology Of Mass Killings During The Chinese Cultural Revolution (1966-1976), SciencesPo, https://www.sciencespo.fr/mass-violence-war-massacre-resistance/en/document/chronology-mass-killings-during-chinese-cultural-revolution-1966-1976.html; and Lynn White, Policies of Chaos: The Organizational Causes of Violence in China’s Cultural Revolution (Princeton, NJ: Princeton: Princeton University Press, 1989), 7. This number has been highly debated. Lucian Pye’s “Reassessing the Cultural Revolution” The China Quarterly, no. 108 (1986): 597–612 claimed that 20 million died because of China’s Cultural Revolution. More recent accounts have argued that this number hovers around 1 to 3 million. For more see, Yang Su, Collective Killings in Rural China during the Cultural Revolution (New York: Cambridge University Press, 2011), 37.
21. Jonathan Fenby, Modern China: The Fall and Rise of a Great Power, 1850-Present (New York: Ecco Press, 2008), 351.
22. Kathyrn Weathersby, “The Soviet Role in the Early Phase of the Korean War: New Documentary Evidence,” The Journal of American-East Asian Relation Studies 2, no. 4 (1993): 5-6, https://www.jstor.org/stable/23613018. Prior to accessing the newly released archival evidence from the Soviet Union in the 1990s, many had argued that Stalin ordered North Korea’s invasion of South Korea. Ultimately, this new evidence reshaped many historians’ arguments as these documents revealed that Kim Il Sung was central to planning and executing the invasion, with Stalin’s support.
23. Max Hastings, The Korean War (New York: Simon and Schuster, 1987), 128-40.
24. Bruce Cummings, The Korean War: A History (New York: Modern Library, 2011), 35. This number is still being debated as James McGuire’s Wealth, Health, and Democracy in East Asia and Latin America estimated 3 million total deaths and 1 million civilian deaths.
25. Courtois, et al., 564. It is difficult to provide concrete data on this number since the information has been kept secret by North Korea; however, this is a lower-end estimate.
26. Balazs Szalontai, “Political and Economic Crisis in North Vietnam, 1955-1956,” Cold War History 5, no. 4 (2005): 401, https://tinyurl.com/3fnhxa86.
27. Hirschman, Charles, Samuel Preston, and Vu Manh Loi, “Vietnamese Casualties During the American War: A New Estimate,” Population and Development Review 21, no. 4 (1995): 783–812, https://doi.org/10.2307/2137774.
28. Porter, Gareth, and James Roberts, review of Creating a Bloodbath by Statistical Manipulation, by Jacqueline Desbarats and Karl D. Jackson, Pacific Affairs 61, no. 2 (1988): 303–10. https://doi.org/10.2307/2759306.
29. World Peace Foundation, “Cambodia: U.S. bombing and civil war,” August 7, 2015, https://sites.tufts.edu/atrocityendings/2015/08/07/cambodia-u-s-bombing-civil-war-khmer-rouge/#_ednref9.
30. Ben Kiernan, “The Demography of Genocide in Southeast Asia: The Death Tolls in Cambodia,” Critical Asian Studies 35, no. 4 (2003): 586, https://doi.org/10.1080/1467271032000147041. This number is debated; the consensus is in the range of 1.5-3 million deaths from the genocide. See also “Cambodia.” University of Minnesota Holocaust and Genocide Studies, 2021, Accessed November 3, 2021, https://cla.umn.edu/chgs/holocaust-genocide-education/resource-guides/cambodia.
31. Stephane Courtois, et al., 647-655.
32. Jeffrey Dixon and Meredith Sarkees, A Guide to Intra-state Wars: An Examination of Civil, Regional, and Intercommunal Wars, 1816-2014 (Thousand Oaks, CA: Sage Publications, 2015), 70. For information on Cuba’s authoritarian regime, see Darren Hawkins, “Democratization Theory and Nontransitions: Insights from Cuba,” Comparative Politics, 33, no. 4 (2001): 441-461, https://doi.org/10.2307/422443.
33. Stephane Courtois et al., 656.
34. Ibid., 664.
35. Haig A. Bosmajian, “A Rhetorical Approach To The Communist Manifesto”, The Dalhousie Review, 457. https://dalspace.library.dal.ca/bitstream/handle/10222/62745/dalrev_vol43_iss4_pp457_468.pdf?sequence=1&isAllowed=y.
36. Allan Wildman, The End of the Russian Imperial Army: The Old Army and the Soldiers’ Revolt (Princeton: Princeton University Press, 1980), 79.
37. Sean McMeekin, The Russian Revolution: A New History (New York: Basic Books, 2017), xii.
38. Yael Ronen, Transition from Illegal Regimes under International Law (Cambridge, Mass: Cambridge University Press, 2011), 16.
39. Gerhard L. Weinberg, A World at Arms: A Global History of World War II (Cambridge: Cambridge University Press, 1994), 99-103.
40. Jean Lopez, World War II Infographics (NY: Thames and Hudson, 2019), 149. See also National World War II Museum Online Exhibit “Research Starters: Worldwide Deaths in World War II,” National World War II Museum, accessed 9/27/21, https://www.nationalww2museum.org/students-teachers/student-resources/research-starters/research-starters-worldwide-deaths-world-war.
41. Joseph Stalin, Speeches Delivered at Meetings of Voters of the Stalin Electoral District, Moscow (Moscow: Foreign languages Publishing House, 1950), 19-40. Cited in http://soviethistory.msu.edu/1947-2/cold-war/cold-war-texts/stalin-election-speech/.
42. Geoffrey Roberts, Stalin’s Wars: From World War to Cold War (CT: Yale University Press, 2006), 245.
43. Michael Lynch, The Chinese Civil War, 1945-1949 (Oxford: Osprey Publishing, 2010), 91.
44. Melvyn Goldstein, A History of Modern Tibet, Volume 2: The Calm Before the Storm: 1951-1955 (Berkeley: University of California Press, 2007), 21.
45. Jonathan Fenby, Modern China: The Rise and Fall of a Great Power, 1850 to the Present (Urbana-Champaign: University of Illinois-Urbana Champaign, 2008), 351.
46. Juliana Pennington Heaslet, “The Red Guards: Instruments of Destruction in the Cultural Revolution,” Asian Survey 12, no. 12 (1972): 1032–47. https://www.jstor.org/stable/2643022
47. Lu Xiuyuan, “A Step Toward Understanding Popular Violence in China’s Cultural Revolution,” Pacific Affairs 67, no. 4 (1994): 533–63. https://www.jstor.org/stable/2759573
48. Frank Dikotter, The Cultural Revolution: A People’s History, 1962-1976 (New York: Bloomsbury Publishing, 2016), 183-191; Yongyi Song, “Chronology Of Mass Killings During The Chinese Cultural Revolution (1966-1976), SciencesPo, https://www.sciencespo.fr/mass-violence-war-massacre-resistance/en/document/chronology-mass-killings-during-chinese-cultural-revolution-1966-1976.html; and Lynn White, Policies of Chaos: The Organizational Causes of Violence in China’s Cultural Revolution (Princeton, NJ: Princeton: Princeton University Press, 1989), 7. This number has been highly debated. Lucian Pye’s “Reassessing the Cultural Revolution” The China Quarterly, no. 108 (1986): 597–612 claimed that 20 million died because of China’s Cultural Revolution. More recent accounts have argued that this number hovers around 1 to 3 million. For more see, Yang Su, Collective Killings in Rural China during the Cultural Revolution (New York: Cambridge University Press, 2011), 37.
49. Pawel Sasanka, “Poznan 1956: A Revolt That Shook the System,” polishhistory.pl, 2021, https://polishhistory.pl/poznan-1956-a-revolt-that-shook-the-system/. The Polish citizens’ complaints encompassed everything. “Regardless of where they lived and what industry they worked in, the attitudes of the workers were shaped by such aspects as elevated production quotas, low wages, dreadful health and safety conditions, difficulties in obtaining supplies, dramatic housing conditions, arrogance, hypocrisy, and corruption on the part of government officials, terror, brutal suppression of the Church, and Poland’s dependence on the Soviet Union.”
50. Ibid.
51. Mark Kramer, “The Soviet Union and the 1956 Crises in Hungary and Poland: Reassessments and New Findings,” Journal of Contemporary History 33, no. 2 (1998): 210, https://www.jstor.org/stable/260972.
52. Hope Harrison, Driving the Soviets up the Wall: Soviet-East German Relations, 1953-1961 (Princeton, NJ: Princeton University Press, 2003), 240.
53. Ibid., 188.
54. Ibid., 192.
55. Jitka Vondrova, “Prague Spring 1968,” Academic Bulletin of the Academy of Sciences of the Czech Republic, (2008), http://abicko.avcr.cz/2008/4/04/prazske-jaro-1968.html.
56. Matthew Quimet, Rise and Fall of the Brezhnev Doctrine in Soviet Foreign Policy (Chapel Hill: The University of North Carolina Press, 2003), 34-37.
57. Guenter Lewy, America in Vietnam (Cary, NC: Oxford University Press, 1980), 451.
58. Nghia M. Vo, The Bamboo Gulag: Political Imprisonment in Communist Vietnam (Jefferson, NC: McFarland & Publishers, 2015), 101.
59. Noor Ahmand Khalidi, “Afghanistan: Demographic Consequences of War, 1978-1987,” Central Asia Survey 10, no. 3 (1991): 101 and 107, http://www.nonel.pu.ru/erdferkel/khalidi.pdf.
60. James Felak, “Polish Communist Perspectives on John Paul II: The Pope’s 1979 Pilgrimage to Poland in State, Party, and Police Documents,” The Polish Review 66, no. 1 (2021): 25, https://www.jstor.org/stable/10.5406/polishreview.66.1.0025.
61. Dennis Dunn, There Is No Freedom Without Bread! 1989 and the Civil War That Brought Down Communism, (New York: Farrar, Straus, and Giroux, 2009), 85.
62. James Felak, “Polish Communist Perspectives on John Paul II: The Pope’s 1979 Pilgrimage to Poland in State, Party, and Police Documents,” The Polish Review 66, no. 1 (2021): 25, https://www.jstor.org/stable/10.5406/polishreview.66.1.0025.
63. Michael Gehler, Piotr Kosicki, and Helmut Wohnout, Christian Democracy and the Fall of Communism (Leuven: Leuven University Press, 2019), 203.
64. Sorin Antohi and Vladimir Tismaneanu, Between Past and Future: The Revolutions of 1989 and Their Aftermath (Budapest: Central European University Press, 2000), 90.
65. Courtois et al., 4. See also Benjamin Valentino, Final Solutions: Mass Killing and Genocide in the 20th Century (New York: Cornell University Press, 2004), 91.
66. Angus Maddison, “The World Economy,” Development Center of the Organisation for Economic Co-operation and Development (2006): 184-185 https://www.stat.berkeley.edu/~aldous/157/Papers/world_economy.pdf.
67. The World Bank, accessed 10/1/21, https://www.worldbank.org/en/home. VOC reviewed the populations of communist nations and added them together to find that over 1.5 billion citizens still live under this regime.
68. Rebecca Wright, Ivan Watson, and Ben Westcott, “Ugyhurs in Xinjiang are being given long prison sentences. Their families say they have done nothing wrong,” CNN World, August 1, 2021, https://www.cnn.com/2021/06/24/china/xinjiang-prisons-china-intl-hnk-dst/index.html.
69. Department of State, “2021 Trafficking in Persons Report: North Korea,” accessed 10/5/21, https://www.state.gov/reports/2021-trafficking-in-persons-report/north-korea/. For Cuba see Department of State, “Country Reports on Human Rights Practices: Cuba,” March 30, 2021, https://www.state.gov/reports/2020-country-reports-on-human-rights-practices/cuba/.
II. Công cụ của chủ nghĩa cộng sản
“Khi còn nhỏ, tôi coi bạo lực là một loại luật tự nhiên. Ở Liên Xô toàn trị, sự áp bức đã giữ mọi thứ lại với nhau. Đó là năng lượng đen tối của đất nước chúng tôi.”
Vladimir Sorokin (1)
Các quốc gia cộng sản, giống như các chế độ toàn trị khác, giành được và duy trì quyền lực bằng cách sử dụng một bộ công cụ chung. Các công cụ này được chia thành hai loại chính: bạo lực của các tổ chức an ninh nhà nước khủng bố và kiểm soát thông tin. Các chế độ cộng sản toàn trị đã sử dụng các công cụ này để duy trì những người cai trị tối cao như Lenin, Stalin, Mao, Kim, Castro và các nhóm tinh hoa trong đảng liên kết của họ. Những người cai trị và nhóm tinh hoa này sau đó sử dụng các tổ chức an ninh của nhà nước để cố gắng buộc công dân của họ phải tuân theo hoàn toàn, bao gồm cả những gì mọi người nghĩ và nói và cách họ sống mọi khía cạnh của cuộc sống. Mỗi công cụ được mô tả dưới đây được sử dụng để loại bỏ mọi mối đe dọa hoặc sự phản kháng đối với nhà nước — thực tế hoặc tưởng tượng. Việc sử dụng các công cụ này phải trả giá bằng con người rất lớn, bao gồm hàng triệu sinh mạng đã mất và nhiều người khác bị bắt và bỏ tù. Không được tính trong số các nạn nhân cộng sản truyền thống là người dân của các quốc gia này, với vô số sự hy sinh cưỡng bức và cơ hội bị bỏ lỡ để có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Người dân của mọi quốc gia đã phải chịu đựng dưới chế độ cộng sản kể từ năm 1917 đều rất quen thuộc với tất cả những sự hy sinh này.
Từ Lời hứa về “Thiên đường” đến Thực tế của Bạo lực và Khủng bố
Làm sao “thiên đường cho người lao động và mọi công dân trên thế giới” của chủ nghĩa Marx có thể dẫn đến một hệ thống cai trị tàn bạo, bạo lực và giết người như vậy? Trong Age of Delirium, David Satter mô tả gốc rễ tư tưởng khiến tội ác của chủ nghĩa cộng sản trở nên khả thi. Chủ nghĩa Marx cho rằng mọi thứ và mọi người chỉ đơn giản là vật chất chuyển động. Không có khái niệm về Chúa, không có tinh thần hay linh hồn. Chủ nghĩa Marx bác bỏ quan điểm thế giới tôn giáo hoặc tự nhiên và lập luận rằng mọi thứ và mọi người chỉ là vật chất trong một thế giới cơ học. Chỉ là một phần của cỗ máy xã hội lớn hơn, con người không phải là cá nhân có các quyền tự nhiên được đảm bảo bởi đấng sáng tạo của họ và do đó, không có quyền đòi hỏi các quyền cơ bản của con người.2 Marx và Engels tin rằng toàn bộ lịch sử được định hình bởi sự chuyển đổi các điều kiện kinh tế của sản xuất trong các cuộc xung đột liên tiếp giữa các giai cấp. Xung đột giai cấp này sẽ lên đến đỉnh điểm trong sự lật đổ bạo lực của giai cấp tư sản, giai cấp trung lưu sở hữu phần lớn của cải dưới dạng tài sản tư nhân, bởi giai cấp vô sản, những người lao động không có gì để bán ngoài khả năng lao động của họ. Được xây dựng trên cơ sở bãi bỏ chế độ sở hữu tư nhân, xã hội phi giai cấp mới này hứa hẹn sự bình đẳng, tự do và dân chủ triệt để, với sự hòa hợp và sự giàu có chưa từng có cho tất cả mọi người.3 Trong khi sự lật đổ và phá hủy xã hội một cách bạo lực diễn ra ở khắp mọi nơi chủ nghĩa cộng sản được thực hiện, sự hòa hợp và sự giàu có chưa từng có chưa bao giờ xuất hiện ở bất kỳ chế độ cộng sản nào.

Lenin và những người Bolshevik là những người đầu tiên thực hiện chủ nghĩa cộng sản của Marx, và họ đã bổ sung thêm vào bạo lực cách mạng vốn có của nó. Họ duy trì khuôn khổ của Marx và nhấn mạnh vai trò của một nhóm tinh hoa gồm những nhà cách mạng chuyên nghiệp có kỷ luật, những người sẽ đóng vai trò là đảng “tiên phong” của giai cấp công nhân. Lenin và những người Bolshevik tìm kiếm quyền lực toàn diện và tuyên bố rằng hệ tư tưởng cộng sản đã khiến cho sự cai trị của họ trở nên bất khả xâm phạm và tất yếu như chính lịch sử vậy. Trong khi Marx tạo ra một thế giới không có Chúa và hy vọng về thiên đường vĩnh cửu sau khi chết, thì chủ nghĩa cộng sản lại hứa hẹn một thiên đường trên trái đất không có Chúa. Khuếch đại cách tiếp cận của Marx, chủ nghĩa Lenin đã ra lệnh sử dụng bạo lực trên diện rộng trong một nỗ lực toàn trị để giành lấy quyền lực.4 Ông và nhóm thiểu số Bolshevik là những người tận tụy, thực sự tin tưởng vào lời hứa của chủ nghĩa cộng sản. Họ cũng có tổ chức hơn, cuồng tín hơn và tàn nhẫn hơn nhiều so với hầu hết chính phủ và người dân Nga. Họ đã tạo ra một nhóm những người thực sự tin tưởng, những người sẵn sàng sử dụng bạo lực để tạo ra một xã hội cộng sản không tưởng trong một quốc gia mệt mỏi vì chiến tranh, chế độ Sa hoàng và chính quyền hậu đế quốc.5

Chính quyền Bolshevik giành được quyền lực là chế độ toàn trị vì bản chất ý thức hệ của nó. Như nhà triết học người Pháp và nhà nghiên cứu người Nga Alain Besancon đã nói, “Yếu tố cơ bản trong Chủ nghĩa Cộng sản, hay ít nhất là yếu tố then chốt, là ý thức hệ. Nếu bạn hiểu cái này, bạn sẽ hiểu cái kia; nếu bạn không hiểu nó, thì bạn chẳng hiểu gì cả.”6 Ý thức hệ, theo đúng nghĩa, khá khác so với cách thuật ngữ này được sử dụng trong giới học giả và bình dân ngày nay. Besancon gọi ý thức hệ là “một học thuyết, để đổi lấy sự cải đạo, hứa hẹn một sự cứu rỗi tạm thời, tuyên bố tuân theo một trật tự vũ trụ mà sự tiến hóa của nó đã được giải mã một cách khoa học và đòi hỏi một hoạt động chính trị nhằm mục đích chuyển đổi xã hội một cách triệt để.”7 Lời hứa về một sự chuyển đổi triệt để của thế giới xã hội và chính trị này đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm ngặt một hoạt động chính trị rất cụ thể. Hệ tư tưởng này hợp pháp hóa mọi hành vi bạo lực cách mạng và đàn áp những kẻ thù được cho là của chế độ; nó cũng biện minh cho việc giám sát và đàn áp toàn trị đang diễn ra. Khi các chế độ cộng sản lên nắm quyền, mọi người phải hành động như thể các mục tiêu ý thức hệ của chế độ đang được hiện thực hóa. Do đó, chế độ cộng sản cũng là một hệ thống nói dối có tổ chức. Ví dụ, trong thảm họa hạt nhân Chernobyl năm 1986, chính quyền Liên Xô đã phủ nhận mức độ nghiêm trọng và nguy hiểm không chỉ đối với người dân mà còn đối với phần còn lại của thế giới. Tất cả là để bảo vệ hình ảnh về sự bất khả xâm phạm của chủ nghĩa cộng sản. Xem Chương 32 để biết thêm thông tin về thảm họa Chernobyl.
Bạo lực và nói dối, được biện minh bằng hệ tư tưởng và quan điểm cho rằng con người chỉ là vật liệu cho cỗ máy nhà nước, đã có tác động tâm lý mạnh mẽ đến mọi người để buộc họ phải tuân thủ. Tất cả các cá nhân và mọi thứ họ sở hữu – cơ thể, suy nghĩ và mọi tài sản của họ – đều được huy động để tạo ra và phục vụ cho chế độ cộng sản.8 Từ Cách mạng Nga năm 1917 cho đến khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, chế độ Liên Xô đã sử dụng bạo lực để giành lấy và duy trì quyền lực và thực thi ảo tưởng về một “thiên đường cộng sản” ngay phía chân trời. Không có quyền cá nhân hoặc quyền sở hữu, những người cộng sản coi mọi người như những sản phẩm dùng một lần để chế độ sử dụng nhằm thúc đẩy các mục tiêu của mình. Ở Liên Xô, nỗi sợ chết hoặc bị giam cầm đã buộc hàng triệu người phải tuân theo mệnh lệnh của Đảng Cộng sản và giả vờ tin vào tuyên truyền của Liên Xô, bất kể nó vô lý hay có tính hủy diệt đến mức nào. Đáng buồn thay, gần 1,5 tỷ người vẫn phải chịu đựng dưới những chế độ và điều kiện cộng sản tương tự như ngày nay.
Bạo lực của Nhà nước an ninh: Khủng bố, giam cầm, tra tấn, hành quyết, đàn áp và nạn đói
Như Karl Marx đã dự đoán chính xác trong Tuyên ngôn Cộng sản của mình, chủ nghĩa cộng sản chỉ tồn tại ở một quốc gia thông qua cách mạng và bạo lực.9 Nga trở thành quốc gia cộng sản đầu tiên, được thành lập bởi cuộc đảo chính và cách mạng Bolshevik năm 1917 và Vladimir Lenin. Năm 1918, trong Nội chiến Nga, Lenin đã thành lập Cheka, một lực lượng cảnh sát mật khủng bố, được thiết kế để bảo vệ ông và chế độ cộng sản. Không giống như ở Hoa Kỳ và các quốc gia dân chủ khác, nơi các cơ quan tình báo và an ninh phục vụ để bảo vệ quốc gia và người dân khỏi các mối đe dọa an ninh trong và ngoài nước, vai trò chính của các tổ chức an ninh cộng sản là đảm bảo sự tồn tại của chế độ, thường là chống lại chính người dân của họ.10 Cheka là nguyên mẫu cho các tổ chức an ninh nội bộ trong tương lai ở Liên Xô và các quốc gia cộng sản khác. Nhiệm vụ của Cheka là thực hiện các vụ hành quyết, giam cầm và cưỡng bức di dời đến các trại lao động (Gulag) đối với bất kỳ cá nhân hoặc nhóm nào bị coi là mối đe dọa đối với chế độ. Trong thời kỳ “Khủng bố Đỏ” của Lenin, bất kỳ công dân nào không liên kết với sự nghiệp của những người Bolshevik, chẳng hạn như kulaks và linh mục, đều bị ra lệnh xử tử.11 Đến năm 1923, hơn 500.000 người đã chết do bị hành quyết, giam cầm và chuyển đến Gulag.12 Việc Lenin sử dụng cảnh sát mật để thực thi quyền cai trị của mình trên toàn quốc đã đặt ra tiêu chuẩn cho các nhà lãnh đạo cộng sản trong tương lai.
Người kế nhiệm Lenin, Joseph Stalin, đã sử dụng NKVD (Ủy ban Nhân dân Nội vụ), một trong những tổ chức kế nhiệm Cheka, để loại bỏ mọi thách thức đối với quyền cai trị của mình trong thời kỳ “Đại khủng bố” từ năm 1936 đến năm 1938. Trong thời kỳ này, Stalin đã loại bỏ những công dân, chính trị gia và quan chức quân đội dám lên tiếng chống lại ông hoặc những người mà ông coi là mối đe dọa tiềm tàng, thông qua các vụ hành quyết hàng loạt và giam cầm trong Gulag.13 Một mô hình đàn áp mới đã xuất hiện: lời thú tội giả và bị ép buộc. Để buộc phải thú tội giả, chế độ của Stalin đã bắt giữ và thường tra tấn nạn nhân một cách cực độ. Những nạn nhân này biết rằng gia đình họ cũng phải đối mặt với việc bị giam giữ trái phép hoặc bị đàn áp khác nếu họ không hợp tác. Sau đó, nhà nước đưa ra những lời thú tội giả tại các phiên tòa giả (Troikas) trong đó phán quyết đã được những người cộng sản quyết định trước khi các nạn nhân bị bắt. Chế độ hứa sẽ trả tự do cho “những nhân chứng” để đổi lấy lời khai chống lại bị cáo.14 Vì sợ hãi và lo lắng cho gia đình hoặc hy vọng mong manh được thương xót, nhiều nạn nhân đã thú nhận những tội ác mà họ không phạm phải.15 Những vụ bắt giữ, xét xử và phán quyết này được thiết kế để tạo ra nỗi sợ hãi lan rộng nhằm đàn áp sự phản kháng đối với nhà nước. Vào thời kỳ đỉnh cao của cuộc Đại khủng bố của Stalin, Bộ Chính trị Liên Xô đã ban hành hạn ngạch cho cảnh sát, hướng dẫn họ về tỷ lệ phần trăm dân số trong quận của họ sẽ bị bắn hoặc bị bỏ tù. Vào tháng 7 năm 1937, Bộ Chính trị đã đưa ra hạn ngạch bắt giữ và xử bắn “kẻ thù của nhân dân” mà không cần xét xử ở mỗi vùng và lãnh thổ: 75.950 người bị hành quyết và 193.000 người bị bỏ tù.16 Đến ngày 1 tháng 11 năm 1938, tổng số người bị kết án là 1,4 triệu người, trong đó có 687.000 người bị xử bắn.17 Theo thời gian, nỗi sợ trở thành nạn nhân tiếp theo đã tạo ra một hệ thống những người cung cấp thông tin sẵn sàng tố cáo hàng xóm hoặc thành viên gia đình.
Stalin không tha cho bất kỳ ai, thậm chí còn lợi dụng các thành viên trong gia đình để chống lại nhau. Ông tin rằng các mối quan hệ cá nhân không quan trọng bằng sự tận tụy mù quáng với bản thân và đảng. Theo phó tình báo của ông, Lazar Kaganovich, “Không hề có tình yêu giữa người này với người khác”. Stalin thậm chí còn coi những người vợ trong vòng tròn thân cận của mình là con tin để đảm bảo lòng trung thành. Khi những người cộng sản truy tố Polina Molotov, vợ của một trong những đồng minh trung thành nhất của Stalin, về tội ác chống lại nhà nước, chỉ có chồng bà là Vyacheslav Molotov không bỏ phiếu chống lại bà.18 Dưới chế độ của Stalin, ước tính có khoảng 14 triệu cá nhân (gấp khoảng hai lần dân số của Arizona) đã bị đưa đến hệ thống Gulag, nơi hơn 1,6 triệu người đã chết vì đói, kiệt sức hoặc bị hành quyết.19 Liên Xô đã thể chế hóa nỗi sợ hãi và đàn áp để phá hủy cấu trúc của xã hội và loại bỏ sự phản kháng.

Các quốc gia cộng sản khác do Liên Xô kiểm soát hoặc lấy cảm hứng từ Liên Xô đã tạo ra các hệ thống giám sát và đàn áp tương tự, có phạm vi và phạm vi rộng lớn. Ví dụ, Stasi Đông Đức—bộ máy an ninh của Cộng hòa Dân chủ Đức—sử dụng một sĩ quan toàn thời gian cho mỗi 166 công dân Đông Đức, nhiều hơn nhiều so với Liên Xô (nơi tỷ lệ là 1:583). Đến năm 1989, trước khi Bức tường Berlin sụp đổ, có hơn 113.000 nhân viên Stasi toàn thời gian được 174.000 người cung cấp thông tin hỗ trợ.20 Sau khi Đảng Cộng sản Campuchia (Campuchia) được thành lập vào năm 1975, Pol Pot đã thực hiện Diệt chủng Campuchia bằng cách sử dụng binh lính Khmer Đỏ để thực hiện các vụ hành quyết hàng loạt, giam cầm và tra tấn. Để xóa bỏ sự phân biệt giai cấp, Khmer Đỏ nhắm vào những cá nhân có học thức, chẳng hạn như bác sĩ và luật sư, cùng với những người có bất kỳ mối liên hệ nào với các quốc gia nước ngoài.21 Pol Pot cũng tìm cách xóa bỏ tôn giáo, khi ông ta và quân lính của mình hành quyết những người theo đạo Thiên chúa và đạo Hồi và buộc phần lớn dân số tu sĩ phải kết hôn và từ bỏ đức tin của họ hoặc phải đối mặt với sự hành quyết.22 Khmer Đỏ cũng xóa sổ người Thái và người Lào và buộc công dân Việt Nam và Trung Quốc trở về quê hương của họ.23 Những cá nhân bị xử tử đã bị đưa đến một trong nhiều nhà tù trên khắp Campuchia. Trong điều kiện vô nhân đạo, họ phải chịu đựng cảnh đói khát và thường xuyên uống nước tiểu của chính mình để sống sót.24 Các nạn nhân phải chịu nhiều hình thức tra tấn khác nhau—trấn nước, đánh đập, ngạt thở bằng túi ni lông—và phụ nữ cũng bị hãm hiếp một cách có hệ thống.25 Khmer Đỏ và Pol Pot đã giết khoảng 2 triệu người Campuchia từ năm 1975 đến năm 1979, tương đương khoảng 25 phần trăm dân số Campuchia, để đạt được cái gọi là thiên đường cộng sản của họ.26 Những nỗ lực của họ chỉ bị ngăn chặn bởi một cuộc xâm lược của nước láng giềng cộng sản của họ, Việt Nam.
Nạn đói do con người gây ra
Nạn đói do con người gây ra—do nhà nước thiết kế hoặc do sự bất tài—là hình thức bạo lực chết chóc nhất trong các chế độ cộng sản. Các quốc gia cộng sản tịch thu mọi tài sản tư nhân, bao gồm cả các trang trại đã hoạt động tốt và sản xuất đủ lương thực cho cộng đồng và quốc gia của họ trong nhiều thế kỷ. Nông dân bị buộc phải làm việc trong các trang trại tập thể nơi họ không có động lực để sản xuất và nơi họ làm việc cho các quan chức cộng sản hầu như không hiểu biết gì về sản xuất lương thực hoặc nông nghiệp. Nạn đói cộng sản tàn khốc nhất xảy ra dưới thời Mao ở Trung Quốc. Từ năm 1958 đến năm 1961, ước tính có khoảng 30-43 triệu công dân Trung Quốc chết đói chủ yếu là do Đại nhảy vọt không khả thi và khiếm khuyết của Mao.27 Chương trình này chứng kiến Trung Quốc chuyển sang nền nông nghiệp tập thể, sáp nhập các trang trại tập thể lớn thành các công xã khổng lồ do các quan chức cộng sản quản lý với hạn ngạch sản xuất không thực tế. Sự bất tài đã dẫn đến một loạt các vụ mùa thất bát, và tình trạng thiếu lương thực đã được khuếch đại bởi sự quản lý yếu kém của những người cộng sản trong việc phân phối lương thực dẫn đến nạn đói trên toàn quốc. 28 Để đối phó với vụ mùa thất bát, các nhà lãnh đạo cộng sản trong các hợp tác xã đã nói dối về sản lượng của họ để có vẻ như đạt được chỉ tiêu. 29 Trong Đại nhảy vọt, Mao cũng đã phát động Chiến dịch Bốn loài gây hại nhằm tiêu diệt chuột, chim sẻ, ruồi và muỗi. 30 Chiến dịch này đã góp phần rất lớn vào nạn đói vốn đã chết người, vì việc mất chim sẻ đã làm tăng số lượng châu chấu và côn trùng ăn hết mọi loại cây trồng được sản xuất. 31 Cuối cùng, Mao cố tình để người dân Trung Quốc chết đói và giết chết hàng chục triệu người để duy trì huyền thoại cộng sản về sự bất khả xâm phạm. Trung Quốc chỉ là một ví dụ về nạn đói do con người cộng sản gây ra. 32
Kiểm soát thông tin toàn diện: Kiểm soát mọi thông tin, tuyên truyền và thông tin sai lệch
Ngoài bạo lực trực tiếp và đe dọa người dân, các chế độ cộng sản hiểu được tầm quan trọng của việc duy trì quyền kiểm soát tuyệt đối đối với thông tin mà xã hội của họ tiếp nhận. Những người cộng sản đã giành được và duy trì quyền kiểm soát mọi hình thức thông tin — ban đầu là báo chí và máy in, sau đó là đài phát thanh, truyền hình và Internet. Việc sử dụng tuyên truyền và thông tin sai lệch đóng vai trò quan trọng ở Liên Xô. Lenin và những người tuyên truyền cộng sản khác đã thu hút được những người theo trung thành, những người chấp nhận những lời hứa của đảng cộng sản và sẽ làm việc không mệt mỏi với đảng để đạt được thiên đường của người lao động. Những người Bolshevik đã hứa “hòa bình, đất đai và bánh mì”. 33 Nhưng cái giá phải trả là mất đi các quyền tự do cơ bản, một cuộc nội chiến, sự sụp đổ kinh tế và nạn đói đã giết chết năm triệu người. 34 Lenin hạn chế quyền tự do ngôn luận và báo chí để đảm bảo rằng chỉ có văn học, tượng đài và giáo lý ủng hộ cộng sản mới đến được với người dân. 35 “Góc Lenin” là những màn tuyên truyền rộng rãi về “người sáng lập giống như thần thánh của nhà nước Xô Viết”. Ở trường học, học sinh bị nhồi sọ thông qua “buổi tập huấn chính trị hóa” với các cuộc diễu hành, bài hát và lời tuyên thệ trung thành với chế độ cộng sản mới.36 Việc sử dụng tuyên truyền vẫn tiếp tục dưới thời Stalin, cũng như việc sử dụng thông tin sai lệch bên ngoài. Trong nạn đói ở Ukraine năm 1932-1933 (xem Holodomor ở Chương 7) khiến 3,6 đến 6 triệu người thiệt mạng, Liên Xô, với sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông phương Tây có thiện cảm ở Moscow (như Walter Duranty của tờ New York Times và Louis Fischer của tờ The Nation), đã kịch liệt phủ nhận sự tồn tại của nạn đói với thế giới. Duranty thậm chí còn tấn công nhà báo xứ Wales Gareth Jones, người đã tận mắt chứng kiến đưa tin chính xác về nạn đói do Liên Xô gây ra.37
Một khía cạnh khác trong tuyên truyền của những người cộng sản là những lời kêu gọi gần như liên tục tập hợp xung quanh chế độ trong các cuộc khủng hoảng – có thật, tưởng tượng hoặc được tạo ra để biện minh cho bất kỳ yêu cầu mới nào mà đảng cộng sản áp đặt lên người dân. Như Richard Pipes đã lưu ý trong Communism: A History, các chế độ cộng sản phát triển mạnh nhờ khủng hoảng: “Chỉ riêng khủng hoảng đã cho phép chính quyền yêu cầu – và đạt được – sự khuất phục hoàn toàn và mọi sự hy sinh cần thiết từ công dân của mình. Hệ thống cần những sự hy sinh và nạn nhân hy sinh vì lợi ích của sự nghiệp và hạnh phúc của các thế hệ tương lai. Theo cách này, khủng hoảng đã cho phép hệ thống xây dựng một cây cầu từ thế giới hư cấu của các chương trình không tưởng đến thế giới thực tế.”38

Các viên chức đảng và những người tuyên truyền nhấn mạnh những cuộc khủng hoảng liên tục này và đổ lỗi cho bất kỳ sự thất bại nào của chế độ là do sự can thiệp của các điệp viên nước ngoài hoặc những kẻ phản bội bên trong quốc gia. Những nhóm tưởng tượng này bị cáo buộc phá hoại cuộc cách mạng và cung cấp cho những người cộng sản một vật tế thần thuận tiện và một lý do chính đáng cho những hy sinh và phương tiện bạo lực để giải quyết chúng.39 Các cuộc khủng hoảng – thực sự hoặc bịa đặt, và chủ yếu là bịa đặt – luôn có những nạn nhân thực sự.
Vào cuối Thế chiến II, khi chủ nghĩa cộng sản theo kiểu Liên Xô lan rộng đến các quốc gia Đông Âu do Hồng quân chiếm đóng, một mô hình kiểm soát thông tin mới đã xuất hiện. Sau chiến tranh, khi các quốc gia Đông Âu bắt đầu xây dựng lại dưới sự chiếm đóng và kiểm soát của Liên Xô, Moscow đã đảm bảo kiểm soát tất cả các chương trình phát thanh. Những người Ba Lan, Đức, Séc và các công dân Đông Âu khác cung cấp tin tức và giải trí bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ chỉ nói về những điều tốt đẹp từ phương Đông và Liên Xô. Những người cộng sản từ chối bất kỳ thông điệp nào không tuân theo kịch bản của Liên Xô, và các đài phát thanh phải đối mặt với nguy cơ mất việc hoặc tệ hơn nếu họ không tuân thủ chương trình nghị sự của cộng sản.40 Tuyên truyền, thông tin sai lệch và chính trị của cộng sản thấm nhuần vào mọi thứ trong xã hội; nghệ thuật, văn học, sân khấu, giải trí và thể thao hoặc trắng trợn truyền tải thông điệp của cộng sản hoặc bị kiểm duyệt để không xúc phạm hoặc đe dọa Đảng Cộng sản. Lenin và Stalin đã đích thân can thiệp vào công việc của các tác giả, nhà sử học, nhà viết kịch và đạo diễn để đảm bảo thông điệp rõ ràng và phù hợp với đường lối của đảng.41 Khi công nghệ tiến bộ trên toàn cầu và thay đổi, thì quyền kiểm soát thông tin của cộng sản cũng vậy.
Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) tiếp tục sử dụng tuyên truyền và thông tin sai lệch trên toàn thế giới. Hệ thống tuyên truyền và thông tin sai lệch của Trung Quốc bắt nguồn từ Diên An, và các phong trào chỉnh đốn được thực hiện ở đó vào năm 1942.42 Mao là một bậc thầy tuyên truyền. Chế độ của ông đã tạo ra các chiến dịch huy động quần chúng để giam giữ các cá nhân nhằm mục đích tẩy não và phân phát các tài liệu tôn thờ Mao để mọi người ghi nhớ. Chế độ này kiểm soát các môn học được giảng dạy trong hệ thống giáo dục và ra lệnh cho nội dung của các tờ báo để quảng bá tư tưởng Mao.43 Hiện nay, Ban Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc (Ban Tuyên truyền) tiếp tục phát tán thông tin sai lệch thông qua các ấn phẩm của đảng, hệ thống giáo dục, các khóa đào tạo, các buổi học, các chiến dịch tuyên truyền quốc gia và các buổi giam giữ và tẩy não.44 Bằng cách kiểm soát mọi công cụ truyền thông và mọi khía cạnh của cuộc sống, ĐCSTQ có thể quảng bá các nguyên tắc cộng sản, chẳng hạn như huy động lao động quần chúng, đồng thời thúc đẩy việc lên án các chính phủ hoặc tổ chức dân chủ nước ngoài có thể đe dọa sự kiểm soát của cộng sản.45
Giống như Trung Quốc, Triều Tiên sử dụng tuyên truyền và thông tin sai lệch để tăng cường sự kiểm soát của mình đối với người dân Triều Tiên. Nhà độc tài cộng sản đầu tiên của Bắc Triều Tiên, Kim Il-sung, đã tự nâng mình lên vị thế giống như một vị thần bằng cách cho dựng hàng nghìn bức tượng của chính mình trên khắp đất nước và yêu cầu người dân cả nước phải tôn thờ. 46 Dưới thời trị vì của Kim Il-sung, người dân buộc phải giữ một bức ảnh của nhà độc tài này trong nhà nếu không sẽ bị phạt. 47 Ngày nay, sau các cuộc tụ họp công cộng, mọi người hát “Không có Tổ quốc mà không có bạn”, một bài hát ca ngợi Kim Jong-un và khả năng xây dựng đất nước của ông. 48 Bắc Triều Tiên cũng đã xóa bỏ lịch sử của Cuộc hành quân gian khổ hoặc Cuộc hành quân đau khổ (1994-1998), dẫn đến khoảng 600.000 đến 2 triệu người chết, bằng cách tuyên bố rằng nạn đói không hề xảy ra. 49 Khả năng duy trì quyền lực và thẩm quyền của Bắc Triều Tiên phần lớn bắt nguồn từ việc kiểm soát hoàn toàn quyền tiếp cận thông tin của người dân trên toàn quốc.
Sự kết hợp giữa bạo lực, kiểm soát thông tin và khủng hoảng đã tạo ra cái mà George Orwell gọi là “suy nghĩ kép” ở tất cả các quốc gia cộng sản. Người dân phát triển một tư duy phân chia cuộc sống thành hai loại: lời nói dối của chế độ và phán đoán đạo đức và quan sát bình thường của người dân về thực tế.50 Họ công khai đọc tất cả các khẩu hiệu, tuyên truyền và lời nói dối của chính quyền cộng sản, nhưng người dân không tin những gì họ buộc phải nói. Tuy nhiên, do nỗi sợ chính đáng đối với nhà nước, họ buộc phải hành động như thể họ tin.
Sources
1. “Russia is Slipping Back into an Authoritarian Empire,” Spiegel International, February 2, 2007, https://www.spiegel.de/international/spiegel/spiegel-interview-with-author-vladimir-sorokin-russia-is-slipping-back-into-an-authoritarian-empire-a-463860.html.
2. David Satter, Age of Delirium: The Decline and Fall of the Soviet Union (New York: Alfred A. Knopf, 1996), 39-40.
3. Ibid, 40.
4. Ibid, 40.
5. Sean McMeekin, The Russian Revolution: A New History (New York: Basic Books, 2017), 201-04, 213-17.
6. Alain Besancon, “The View from East of Eden,” Encounter (June 13, 1980). See also, “On the Difficulty of Defining the Soviet Regime,” in The Great Lie: Classic and Recent Appraisals of Ideology and Totalitarianism (Wilmington, DE: ISI Books, 2011), 39.
7. Alain Besancon, A Century of Horrors (Wilmington, DE: ISI Books, 2018), xv.
8. Ibid, 40.
9. Karl Marx, Friedrich Engels, Steven Lukes, Stephen Bronner, Vladimir Tismaneanu, Saskia Sassen, and ed. Jeffrey Isaac, The Communist Manifesto (New Haven: Yale University Press, 2012), 83, https://www-jstor-org.proxyau.wrlc.org/stable/j.ctt5vm1x2.
10. Mark M. Lowenthal, Intelligence: From Secrets to Policy 8th Edition, (New Haven: CQ Press, 2019). See Lowenthal’s discussions on the nature of Soviet and other foreign intelligence agencies and security services.
11. Stephane Courtois et al., The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1999), 740.
12. Michael Wildt, Revolutions and Counter-Revolutions: 1917 and Its Aftermath from a Global Perspective (Chicago, IL: University of Chicago Press, 2017), 58.
13. Orlando Figes, The Whisperers: Private Life in Stalin’s Russia (New York: Metropolitan Books, 2007), 275-315. See also, Courtois, 198.
14. Simon Sebag Montefiore, Stalin: The Court of the Red Tsar (New York: Alfred Knopf,2004), 184-85.
15. Robert Conquest, The Great Terror: A Reassessment (Oxford: Oxford University Press, 2008), 121.
16. Richard Pipes, Communism: A History (New York: Modern Library, 2001), 64 and Paul Gregory, Philip Schroder and Konstantine Sonin, “Dictators, Repression and the Median Citizen: An “Eliminations Model” of Stalin’s Terror (Data from the NKVD Archives)” Centre for Economic and Financial Research At New Economic School Working Paper No 9, November 2006, 7-9.
17. Ibid, Gregory, 8.
18. Montefiore, 316-317.
19. Courtois,186. Courtois estimates that 2 million died in Gulag camps however, Courtois claims that the Gulag deaths number is inflated. J. Arch Getty, Gabor Rittersporn, and Victor Zemskov’s “Victims of the Soviet Penal System in the Pre-war Years: A First Approach on the Basis of Archival Evidence” American Historical Review 98 no. 4 (1993): 1017-1049 claims 1,053,829 citizens died in the Soviet camps from 1934 to 1953 not including labor colonies. Michael Ellman estimates that the number rises to 1.7 million gulag deaths if labor colonies are included in “Soviet Repression Statistics: Some Comments.” For total number of citizens placed in the Gulags see, Stephen Wheatcroft, “Victims of Stalinism and the Soviet Secret Police: The Comparability and Reliability of the Archival Data-Not the Last Word,” Europe-Asia Studies 51, no. 2 (1999): 320, https://doi.org/10.1080/09668139999056. Wheatcroft estimates that 14 million Soviet citizens passed through the Gulag from 1930-1953.
20. John Koehler, Stasi: The Untold Story of the East German Secret Police (Boulder, CO: Westview Press, 1999), 7-9. Many historians estimate that the number of officers and informants reaches up to 500,000; however, due to the destruction of documents on Stasi agents and informants, the true numbers may never be known.
21. Courtois, 586-588.
22. Philip Short, Pol Pot: The History of a Nightmare (London: John Murray Press, 2004), 326 and 593.
23. Ibid, 593.
24. Helen Jarvis, et al., Genocide in Cambodia: Documents from the Trial of Pol Pot and Leng Sary (Philadelphia, PA: University of Pennsylvania Press, 2000), 531.
25. Ibid, 164.
26. Ben Kiernan, “The Demography of Genocide in Southeast Asia: The Death Tolls in Cambodia,” Critical Asian Studies 35, no. 4 (2003): 586. This number is debated, the consensus is in the range of 1.5-3 million deaths from the genocide.
27. Archie Brown, The Rise and Fall of Communism (New York: Harper Collins Publishers, 2009), 316-17 and Courtois, 495.
28. John Bowman, Colombia Chronologies of Asian History and Culture (New York, NY: Colombia University Press, 2000), 72.
29. Yang Jisheng, Tombstone: The Great Chinese Famine, 1958-1962 (New York, NY: Farrar, Straus, and Giroux, 2012), 240.
30. Sigrid Schmalzer, Red Revolution, Green Revolution: Scientific Farming in Socialist China (Chicago, IL: University of Chicago Press, 2016), 240.
31. Ibid, 240.
32. See Chapter 7 on the 1932-33 Holodomor in the Soviet Union for another example.
33. McMeekin, 213.
34. Norman Lowe, Mastering Twentieth-Century Russian History (London, UK: Bloomsbury Publishing, 2020), 155.
35. Figes, 20-31.
36. Ibid, 21.
37. Robert Davies and Stephen Wheatcroft, “Stalin and the Soviet Famine of 1932-1933: A Reply to Ellman,” Europe-Asia Studies 58, no. 4 (2006): 627, https://www.jstor.org/stable/20451229 and James E. Mace ”The American Press and the Ukrainian Famine in Genocide Watch, ed Helen Fain (New Haven: Yale University Press, 1992) 119-20.
38. Pipes, 57 and Mikhail Heller and Aleksandr Nekrich, Utopia in Power: The History of the Soviet Union from 1917 to the Present (New York: Summit Books, 1986), 201.
39. Pipes, 57.
40. Anne Applebaum, The Iron Curtain: The Crushing of Eastern Europe 1944-1956 (New York: Anchor Books, 2013), 174-91.
41. Montefoire, 131-41 and Vladimir Lenin letter to Maxim Gorky as found in the Library of Congress, https://www.loc.gov/exhibits/archives/trans-g2aleks.html.
42. David Shambaugh, “China’s Propaganda System, Processes and Efficacy,” The China Journal, no. 57 (2007): 26, https://www.jstor.org/stable/20066240.
43. Ibid, 27.
44. Ibid, 50.
45. Ibid, 52.
46. Victor Cha, The Impossible State: North Korea, Past and Future (New York, NY: Ecco Press, 2012), 73. See also, Peter H. Lee, et al, Sources of Korean Tradition: From the Sixteenth to the Twentieth Centuries (New York, NY: Colombia University Press, 1997), 419. Lee describes how the Cult of Personality surrounding Kim Il-Sung was created to glorify the heroic struggle of the Kim family.
47. Helen-Louise Hunter, Kim Il-Song’s North Korea (CT: Greenwood Publishing Group, 1999), 16.
48. Eddie Burdick, Three Days in the Hermit Kingdom: An American Visits North Korea (NC: McFarland, 2014), 248.
49. David Kang, “They Think They’re Normal: Enduring Questions and New Research on North Korea,” International Security 36, no. 3 (2011): 155, https://muse.jhu.edu/article/461858.
50. Satter, XV-XVI.
51. The Demolition of the T.G. Masaryk Monument at Lovesice near Prerov, field report, Europeana, accessed June 30, 2022 https://www.europeana.eu/en/item/2022043/10891_osa_1e3fc2c5_d039_468b_a830_a9f5452f54ba.52. “Torture Methods Used by the Cheka (1924),” Alpha History, accessed June 30, 2022, https://alphahistory.com/russianrevolution/torture-methods-cheka-1924/
Nguồn: victimsofcommunism
NTHF | Lĩnh Nam chuyển ngữ