Welcome to Nguyễn-Thái-Học Foundation   Click to listen highlighted text! Welcome to Nguyễn-Thái-Học Foundation

Tư tưởng dân chủ của các nhà nho Duy Tân đầu thế kỷ XX


Trần Đình Hượu (1927-1995)                   

    Đã đúng 80 năm kể từ khi thành lập cũng như khi đóng cửa của trường Đông kinh nghĩa thục, trung tâm truyền bá tư tưởng và phát động phong trào dân chủ ở nước ta đầu thế kỷ. Không phải vì lý do “khánh tiết” như vậy mà ta bàn về tư tưởng dân chủ của các nhà nho yêu nước. Dân chủ hóa là yêu cầu cấp thiết của đất nước từ phong kiến đi lên xã hội chủ nghĩa đã đượt đặt ra từ khi thành lập và được Đại hội VI đặc biệt nhấn mạnh. Nội dung dân chủ, trong tư tưởng và trong thực tế, là những bậc thang trên chiều cao của tiến bộ xã hội, cho nên hiểu tư tưởng dân chủ của các nhà Nho duy tân là xác định độ cao đó của nước ta đầu thế kỷ.

    Chưa bao giờ trong lịch sử nước ta những chữ dân trí, dân khí, dân sinh, dân quyền, dân chủ, những vấn đề liên quan đến người dân được nhắc đi nhắc lại nhiều như đầu thế kỷ này. Không phải trước kia, trong thời phong kiến ta ít nói đến dân. Thực tế rất khó khăn, luôn luôn gặp thiên tai và ngoại xâm, làm cho người cầm quyền trước đây đã ý thức được rõ ràng vai trò của người dân. Không chỉ Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi nói về dân mà cả Gia Long, Minh Mạng, cả Tự Đức nữa, theo những lời ghi trong Thực lục, cũng không ngớt nói về dân, và cũng không phải khi nào làm thế cũng chỉ là để mị dân. Điều khác trước là các nhà Nho duy tân nhấn mạnh dân là chủ. Với các nhà Nho quen theo danh, theo chữ mà nhận nghĩa, dân là chủ cũng là dân chủ. Ngày nay, muốn hiểu đúng điều họ đã nghĩ, chúng ta lại phải tìm nội dung thực chất của tư tưởng dân là chủ của họ mới xác định được trình độ dân chủ mà họ đã đạt tới, mà họ mong vươn tới.

    Đầu thế kỷ, vào quãng những năm 1905 – 1907, nhiều áng văn chương đã kích động lòng yêu nước, quyết tâm đổi mới phá tan không khí im lìm, rã rời của cả nước: Bài ca Á tế á của một tác giả khuyết danh, Lưu cầu huyết lệ tân thư, Hải ngoại huyết thư của Phan Bội Châu; Đề tỉnh quốc dân ca, Đầu chính phủ thư của Phan Châu Trinh, Hợp  đoàn doanh sinh thuyết của Nguyễn Thượng Hiền, bài ca Phen này cắt tóc của Nguyễn Quyền… Các tác giả nói đến vận mệnh nguy nan của đất nước nô lệ và lạc hậu, đến cảnh khổ nhục của người dân mất nước, đến nhiệm vụ cấp bách cứu nước và duy tân. Tội nợ là do vua quan, do chế độ chuyên chế, nhưng trách cứ thì phải trách cứ ở dân. Trách nhiệm cứu nguy phải đặt lên vai dân. Vì dân mới là chủ. Phan Bội Châu nói tha thiết:

Người, dân ta; của dân ta,

Dân là dân nước, nước là nước dân.
…Sông phía Bắc, bể phương Đông
Nếu không dân cũng là không có gì
(Hải ngoại huyết thư)

    Với tư tưởng dân là chủ như thế, Phan Châu Trinh phủ định quyết liệt chính quyền Nam Triều, Phan Bội Châu viết quốc sử thay cho gia sử, các cụ vạch ra phương hướng cứu nước và con đường xây dựng tương lai. Đó là một bước ngoặt về tư tưởng, một bước phát triển thật sự của tư tưởng chính trị.

    Trước đây trong kinh điển Nho gia đã nói: “Dân là gốc nước, gốc vững thì nước yên’ (Kinh thư – “Ngũ tử chi ca”), “dân là quý, tiếp đó là xã tắc, vua là thấp” (Mạnh Tử), “vua là thuyền, thứ dân là nước, nước có thể chở thuyền, cũng có thể làm lật thuyền” (Khổng Tử gia ngữ). Vì là lời thánh hiền, chép trong Kinh, Truyện nên những điều đó đã thành định luật, thành chân lý phổ biến. Nhiều người đã dùng những câu đó làm căn cứ lập luận, nhắc nhở vua quan cầm quyền quan tâm đến dân. Nhưng dầu người dân, cũng được hình dung là số đông (chúng), có lực lượng, khả năng, vai trò lớn đến đâu thì vẫn là dân đen, vẫn là thần tử của vua. Nhà vua nắm chủ quyền theo thiên mệnh: không coi dân là vật sở hữu như chủ nô là lãnh chúa mà coi dân là vật được giao phó, phụ thuộc vào mình vì được uỷ trị. Trời giao dân cho vua để vua chăn dắt, nuôi nấng và dạy dỗ và vì vậy theo trị đạo của Nho giáo, vua phải là cha mẹ dân và theo sách Đại học thì như vậy có nghĩa là “dân chi sở hiếu, hiếu chi; dân chi sở ố, ố chi”, yêu ghét đúng cái mà dân yêu ghét (chương X). Theo cách hiểu như vậy, “dân là quý”, dân cao hơn, phải được coi trọng hơn xã tắc và người làm vua, “dân là gốc nước” đều phải hiểu theo tinh thần quan bản vị, phải với một tiền đề dân nước ngôi vua đều thuộc về vua, chủ quyền thuộc về vua, dầu chủ quyền theo thiên mệnh có khác với quyền sở hữu. Trên cơ sở của tư tưởng chủ quyền như vậy, người làm vua phải ý thức đầy đủ sức mạnh của nước – cũng tức là của mình – từ dân mà ra cho nên phải biết nuôi dân, bồi dưỡng sức dân, phải biết “thời sử, bậc liễn” (Đại học) điều động không hại đến sản xuất, phải hiểu cải tạo lý “có đức thì có người, có người thì có đất (nước), có đất nước thì có của, có của thì có dùng (Đại học – chương X). Vì hiểu như vậy cho nên Minh Mạng, một ông vua chuyên chế điển hình luôn luôn lấy nguyên tắc “dân vi bang bản” ra đốc thúc quan lại làm việc, tất nhiên Minh Mạng nhắc điều đó và cũng nhấn mạnh trách nhiệm lo cho dân, dạy dân là của vua. Và cũng vì vậy mà Bảo Đại, sau đảo chính Nhật dám đưa “dân vi quý” làm nguyên tắc hiến cho “đế quốc”. Dân, người bị trị, được quan tâm, được yêu thương, được tôn trọng nhưng là thuộc về vua, người cai trị, người có chủ quyền. Đó là quan điểm dân của Nho gia.

    Quan điểm “dân” của Nho gia hình thành rất sớm, trải qua đấu tranh gay gắt với Mặc gia và Pháp gia, được ổn định và chế độ chuyên chế thừa nhân là đạo lý, làm tinh thần lập pháp. Quan điểm đó vốn ra đời theo tinh thần “tôn Chu”, lấy xưa làm thầy nghĩa là noi theo truyền thống. Theo tư tưởng truyền thống đó, người dân phải sống theo mệnh Trời và mệnh vua. Vua là bậc “thánh nhân” có đạo đức, được trời lựa chọn, giao cho trị nước, trị dân nên tự xưng là “thiên tử”. Vua theo mệnh trời thực hiện sự thống nhất tức là lập ra một trật tự trên dưới quy tụ tất cả vào một người là thiên tử. Chỗ dựa để trị nước là họ hàng và người thân tín (thân cựu), làm vua không chỉ là làm kẻ bề trên, kẻ cầm đầu mà còn là kẻ làm cha mẹ, kẻ làm thầy của dân. Thiên Thái Thế trong Kinh Thư nói: “Trời thương hạ dân đặt vua cho họ, đặt thầy cho họ”. Cho nên dân không phải là cái vua có, vua chiếm được – một thứ của cải, súc vật mà là  những con người được uỷ trị, và vì vậy trị dân không phải bằng hình phạt mà bằng đức, bằng lễ, bằng giáo hoá. Trong thực tế thì sự tập trung tuyệt đối quyền hành vào thiên tử, đường lối dựa vào họ hàng và kẻ thân tín, sự phân biệt quân tử, tiểu nhân – người cai trị và kẻ lao động – trong xã hội làm nổi bật sự bất công vô lý.

    Mặc gia và Pháp gia là những học phái chống tư tưởng trên mỗi bên theo một phía. Mặc Tử cũng chủ trương một chính quyền có hiệu lực và tập trung, nhưng lại phản đối sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội. Mặc Tử lên án “Vương công đại nhân” “bóc lột, sống dựa vào sức của “nông phu chức phụ” (dân lao động). Ông đòi hỏi người cầm quyền “làm điều lợi, bỏ điều hại” cho dân, phải chọn người hiền tài để làm và làm việc hình chính thực sự. Ông phản đối việc dùng người dựa vào họ hàng, dựa vào đẳng cấp. Mặc Tử tôn thờ Trời, nhấn mạnh “thiên chí”, nhưng chống lại thuyết thiên mệnh. Ông nhấn mạnh dân đều là con Trời để đòi hỏi một thứ bình đẳng xã hội, một cách tuyển chọn hiền tài và một đời sống dựa vào lực của từng người. Đó là tư tưởng phản kháng truyền thốngcủa bình dân, của những người nông phu, chức phụ.

    Ở một phía khác, Pháp gia cũng chủ trương xây dựng một chính quyền thống nhất và tập trung nhưng không coi nguồn gốc của nhà nước là ở mệnh Trời. Người làm vua dùng sức mạnh mà giành lấy nước, lấy dân. Nước và dân là của vua, vua có toàn quyền sử dụng theo ý mình. Mọi việc chính sự là do vua và vì vua. Dân là những con người có tính “tự vị” (ích kỷ, vì mình), ham sống, ham giàu, ham sang, thích thưởng, sợ phạt. Cho nên cai trị phải biết dùng “thế” (chức vụ), dùng “thuật” (thủ đoạn), biết cách thưởng phạt, thưởng hậu và phạt nặng, bắt dân làm việc. Pháp gia phản đối cái chức năng làm cha, làm thầy của người cầm quyền, phản đối lối cai trị bằng đức, bằng lễ mà chủ trương nắm quyền làm chủ, cai trị bằng pháp lệnh. Pháp lệnh coi mọi người như nhau, không phân biệt theo thân sơ, theo đẳng cấp, nhưng ai cũng như nhau vì mọi người đều chỉ là súc vật[1].

    Nho giáo thắng thế, đúng ra là được chế độ chuyên chế vừa lòng lựa chọn làm quốc giáo, chủ yếu là ở mấy điểm:

  • Chính quyền thống nhất vào một mối.
  • Ông vua thánh nhân vừa là cha vừa là thầy, cai trị theo mệnh Trời.
  • Xã hội phân biệt theo họ hàng, đẳng cấp.

    Còn cách cai trị thì trong Pháp ngoài Nho, dùng cả đức, lễ, dùng cả pháp, thuật. Xã hội không còn phân biệt theo tiểu nhân, quân tử mà đã theo “tứ dân”: sĩ, nông, công, thương. Chủ thể vẫn là nông dân và thợ thủ công. Thương nhân là hạng “thực mạt” bị khinh bỉ. Sĩ giữ chức trách giáo hoá, làm đội dự bị cho bộ máy quan lại, nên được trọng vọng, đặt lên hàng đầu, làm người thay mặt cho dân. Trong xã hội mà Nho giáo độc quyền chi phối chính trị – Đạo gia và Phật giáo đều thừa nhận hay lên án về mặt lý luận thì cũng đều chấp nhân trong thực tế cách tổ chức chính trị – xã hội của Nho giáo – người thường dân có trước mặt không chỉ ông vua chuyên chế cực quyền mà còn có cả sự phân biệt trọng quan khinh dân, trọng sĩ khinh dân lao động, trọng nông ức thương. Người dân thường không chỉ là “dân đen” phải phục tùng vua quan trong họ trong làng mà họ vẫn là “dân ngu” cần được giáo hoá.

    Nhiệm vụ dân chủ hoá mà các nhà nho duy tân đầu thế kỷ đặt ra là cho một người “dân” như vậy. Với người “dân đen”, “dân ngu” vẫn được coi là quý, là gốc của nước. Như vậy, muốn có quyền dân chủ tất phải giải quyết những vấn đề không chỉ về dân quyền mà còn về nhân quyền, không chỉ về thân phận chính trị mà còn về thân phận xã hội, về quan niệm nhân cách.

    Với thực tế mất nước, xây dựng chính quyền thực dân, phát triển kinh tế công thương nghiệp ở  các thành phố, nhà nho mất dần vai trò kẻ “tiên tri tiên giác”, bị đẩy xuống hạng dân thường. Nhà nho duy tân chứa chất một nhiệt tình yêu nước, thương dân nồng nàn, càng ý thức được sâu sắc cái khổ, cái nhục của người dân mất nước. Họ nhìn ra trăm đường tai vạ của đất nước khi nằm trong tay một ông vua chuyên chế, khi sống dưới chế độ vua quan. Tân thư, tân văn và cùng với nó “trào dâng, thác đổ” của phong trào Duy tân ở Nhật Bản, Trung Quốc, “sấm vang chớp giật” của tư tưởng dân chủ châu Âu dội xuống làm cho họ bàng hoàng bừng tỉnh. Được mở mắt nhìn ra thế giới, họ hào hứng tán thưởng cách kinh doanh làm giàu, say mê với tri thức, kỹ xảo các nước tư bản – những cái đối lập với tình trạng trì trệ lạc hậu của ta – và coi là lý tưởng của chế độ dân chủ tư sản – cái đối lập với chế độ chuyên chế ở ta – cả một thế hệ các nhà nho mà phần lớn, những người cầm đầu là những nhà khoa bảng nổi tiếng, say mê ca ngợi Khang, Lương, sùng bái Mạnh Đức Tư Cưu, Lư Thoa. Họ kêu gọi giật giọng duy tân, đề xướng “dân là chủ”.

    Để khẳng định chân lý mới đó, các nhà Nho duy tân đã làm quen với những tư tưởng tự do, bình đẳng, luật pháp, những vấn đề dân quyền của xã hội phương Tây. Nhưng khi nói một cách thống thiết “muôn dân nô lệ dưới cường quyền” (Phan Châu Trinh) thì người dân trước hết cũng được đặt trong thực tế mất nước, trong quan hệ với nước bị mất về tay giặc ngoài và với vua quan chuyên chế, chế độ nhà nước chịu trách nhiệm về việc mất nước đó. Và cường quyền trước mặt là cường quyền của kẻ xâm lược thực dân. Cái được chú ý là chủ quyền quốc gia chứ chưa phải là dân quyền, nhân quyền trong đời sống. Nói dân là chủ nhưng dân là ai? Được hình dung trong tập hợp thế nào? Trong một tình thế cấp bách, nói như các cụ là ở vào thế như “lửa bén lông mi”, cái trước mắt mà các cụ muốn dân làm chủ là nhiệm vụ cứu nước. Không có gì sai lầm hay quỷ quyệt ở đây cả, ngược lại mới đúng. Một sự thay đổi lớn như vậy đòi hỏi được biện giải. Phải tìm cơ sở lý luận cho việc đưa dân thay vua làm chủ.

    Trong thực tế thì tuy còn ngôi vua nhưng vua đã theo giặc, bỏ mất quyền làm chủ. Tuy thế trước đó không lâu phong trào cưú nước rầm rộ khắp toàn quốc vẫn được phát động dưới lá cờ Cần vương, theo tinh thần trung nghĩa. Phan Đình Phùng, tấm gương chói lọi của lòng yêu nước lúc đó đã nói: “Nước mình mấy nghìn năm nay, đất nước không rộng, quân lính không mạnh, tiền của không giàu, cái chỗ dựa để dựng nước là nhờ có cái gốc vua tôi, cha con theo năm đạo thường mà thôi”. Một ông vua có thể bị mất ngôi, mất nước nhưng ngôi vua vẫn là tượng trưng cho nước, vẫn là ngọn cờ tập hợp nhân dân. Sức mạnh tậph hợp, sức mạnh thống nhất của ngôi vua dựa vào thuyết Thiên mệnh của Nho gia, nước là của Trời giao cho vua, mà dân cũng là của trời giao cho vua. Cái cộng đồng người sống trong nước được hình dung như một gia đình mà người gia trưởng là vua. Do công ơn nuôi nấng, dạy dỗ mà người dân phải biết ơn vua, phục tùng vua, biết ơn và phục tùng như con đối với cha. Quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội tuỳ theo mệnh vua. Yêu nước chỉ có thể là trung nghĩa. Gạt bỏ ngôi vua thì chỉ còn lại dân. Dân là chủ. Nhưng dân quan hệ với nước thế nào, quan hệ với cái cộng đồng người trên cả đất nước thế nào? Dựa vào cơ sở nào mà có chủ quyền, mà có nghĩa vụ?

    Theo lý luận ở phương Tây người ta tìm cơ sở đó ở bản nguyên con người và xã hội. Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng và xã hội gồm những cá nhân tự do, theo tự nguyện khế ước mà tổ chức nhà nước, đặt ra pháp luật. Những cá nhân trong xã hội là công dân trước pháp luật và nhà nước. Trong xã hội, trước nhà nước và pháp luật, mọi công dân là bình đẳng, là những cá nhân có quyền tự do, có quyền sở hữu và có quyền mưu cầu hạnh phúc. Sự công bằng của luật pháp chính là sự tôn trọng những quyền đó, tôn trọng sự khế ước giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Những người tự do và bình đẳng quan hệ với nhau theo tinh thần hữu ái. Đó là cơ sở lý luận chống phong kiến, hình thành trong cuộc đấu tranh của các tầng lớp thị dân, của giai cấp tư sản. Cá nhân, cái thực thể được đưa làm đơn vị xã hội, được chế độ dân chủ tư sản bảo vệ quyền lợi, được chú ý ở nhiều mặt: xã hội, chính trị, kinh tế. Quyền dân chủ cho những cá nhân đó trước hết nhằm làm cho nó làm chủ được vận mệnh của mình trong đời sống xã hội và chống lại sự lạm quyền của nhà nước và pháp luật.

    Những điều đó khi đến với các nhà Nho duy tân, được hoan nghênh nhiệt liệt vì đó là thuốc giải độc cho bệnh chuyên chế. Nhưng thực tế nước ta lúc đó chưa có tiền đề để tiếp nhận những vấn đề như vậy. Trước sự mất nước và chế độ chuyên chế có tội làm mất nước, người dân được các cụ suy tôn làm chủ mà các cụ trao cho họ, được hình dung ở những bình diện hoàn toàn khác. Không xuất phát từ cuộc đấu tranh chính trị – xã hội đòi tự do, bình đẳng và công bằng, các cụ không quan tâm nhiều về bản nguyên của con người và xã hội, không nhìn người dân là những con người được tập hợp như thế nào để thành xã hội, để có nhà nước và pháp luật, những thực thể thiết yếu không thể bỏ qua khi bàn về nhân quyền và dân quyền. Các cụ chỉ chú ý người dân của nước, người dân trong quan hệ với nước. Nước theo cách nhìn của lối làm ăn mới không chỉ là lãnh thổ với phong tục văn hiến riêng mà nhấn mạnh chứa đựng nhiều tài nguyên, còn dân sinh tự trên lãnh thổ ấy thì được nhấn mạnh là thuộc cùng dòng giống. Bị một tư tưởng rất phổ biến thời ấy ám ảnh là giống da vàng có nguy cơ diệt chủng vì người da trắng, các cụ nhắc nhở dòng giống Tiên Rồng, con cháu Lạc Long và Âu Cơ – đẻ trăm trứng, nở trăm con – không những cao quý vì linh thiêng và anh hùng, thống minh mà còn sinh sản nhiều không thể diệt chủng. Đất nước, địa bàn sinh tụ của dòng giống là gia tài, sản nghiệp, là tự điền hương hoả do tổ tiên để lại. Trong nước những người dân vì là con cháu cùng của một giống nòi, có tính máu mủ ruột rà với nhau nên liên kết lại theo nghĩa đồng bào. Còn với bên ngoài, với các nước, ta cũng giống như trong quan hệ họ hàng, làng xóm:

Hồn xưa dòng dõi Lạc Long
Con nhà Nam Việt nười trong giống vàng
Chi na chung một họ hàng
Xiêm La, Nhật Bản cùng làng Á Đông.

    Với những người quốc dân sống theo nghĩa đồng bào như vậy, cồng đồng xã hội khôngphải thành lập theo khế ước, theo nguyên tắc tự nguyện, không cần dựa vào sự sòng phẳng, công bằng về nghĩa vụ và quyền lợi. Động lực để làm chủ hay chủ động làm tròn nghĩa đồng bào ruột thịt.

    Làm chủ thể cho cuộc vận động dân chủ của các nhà Nho duy tân là còn người “quốc dân-đồng bào” chứ không phải là con người “cá nhân-công dân” như trong cách mạng dân chủ ở phương Tây. Con người quốc dân-đồng bào như thế ra đời không những là sản phẩm của cuộc đấu tranh dân tộc nhằm giành độc lập mà còn là sản phẩm của tư tưởng Nho giáo, nếp nghĩ theo Nho giáo.

–    Lấy gia đình mà hình dung thế giới.

–    Lấy cuộc sống làng họ mà hình dung xã hội và nhà nước.

–    Sống theo tình, nghĩa, từ nghĩa đồng tông, đồng hương mà suy đến nghĩa đồng bào. Lấy ân tình với tổ tiên đất nước, tình nghĩa với đồng bào thay thế nghĩa quân thần.

    Với cách suy nghĩ đó thì tổ chức xã hội cũ có mở rộng, có thêm bớt nhưng không có cải tổ cách mạng. Con người vẫn là thành viên của cộng đồng chứ không phải cá nhân, vẫn định tính bằng có đức – bên cạnh tư đức có thêm công đức – chứ không phải là nhân cách độc lập. Hơn thế nữa, làm đơn vị cho xã hội, dân chủ đó là những con người với đủ quan hệ cha con, anh em, vợ chồng, tức là hệ tiểu nông chứ không phải cá nhân của quan hệ tư sản. Người ta huy động hết các quan hệ mẹ con, anh em, vợ chồng, bè bạn để thúc dục người quốc dân làm nghĩa vụ với nước:

Sao cho ơn trả nghĩa đền
Để yên việc nước, kẻo phiền mẹ cha.
Làm trai yêu nước quên nhà,
Nước kia có vững thì nhà mới nên.

     Nói quên nhà làm tạm xa, tạm rứt bỏ chứ không phải gia đình mất ý nghĩa trong đời sống xã hội. Năm đạo thường mà trước đây Phan Đình Phùng coi là chỗ dựa để không mất nước vẫn còn đủ cả năm, chỉ bớt nghĩa vua tôi và thay bằng nghĩa đồng bào.

    Những lời kêu gọi thiết tha, nóng bỏng nhiệt tình yêu nước và cách mạng của các nhà nho duy tân lúc đó có sức lôi cuốn rất mạnh, đổi hẳn bộ mặt tinh thần của đất nước, xây dựng thành một phong trào quần chúng rộng rãi từ Bắc chí Nam. Chất men say lòng, kích thích phong trào chính là tư tưởng dân là chủ, nhưng như ta đã rõ, tư tưởng dân chủ của các cụ chứa đựng không nhiều yếu tố cách mạng, không hứa hẹn những tiến bộ thực sự về quyền dân chủ cho người dân.

III

Phong trào Duy tân kéo dài không lâu, vừa nhen nhóm lên đã bị thực dân Pháp đàn áp. Nhưng phong trào lan ra khá rộng và có rất nhiều nhà nho các tỉnh tham gia. Hai đại biểu về tư tưởng mà cũng là hai lãnh tụ phong trào là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Ta quen phân biệt Phan Châu Trinh là dân chủ còn Phan Bội Châu là người bạo động, ít tư tưởng dân chủ hơn Phan Châu Trinh. Lý do là Phan Châu Trinh chống Nam triều mà Phan Bội Châu phò Cường để là minh chủ. Hai cụ Phan trong lịch sử cận đại nước ta là những nhân vật quan trọng về nhiều mặt, đời hoạt động của hai người còn kép dài sau khi phong trào Đông kinh nghĩa thục chấm dứt, hoạt động trong những điều kiện đã khác nhiều. Cho nên chúng tôi chưa muốn bàn ở đây tư tưởng dân chủ của hai cụ, mà chỉ đề cập đến một vài cạnh khía có liên quan đến những vấn đề đã nêu ở trên.

    Phan Châu Trinh là người chống Nam triều rất quyết liệt. Phan Châu Trinh cũng là người vạch trần những cái thối tha trong xã hội Việt Nam từ chốn triều đình đến vùng thôn ấp, từ vua quan cho đến cường hào, thân sĩ, dân thường. Ông làm cho người ta căm giận, ông làm cho người ta tởm lợm cái cảnh “các bậc đại thần ăn đầm, nằm đìa ở chốn triều đình”, các quan tỉnh huyện chỉ biết “bắt phu, thu thuế cùng đi đón đi tiễn quý quan”, “đút lót người trên nhiễu kẻ dưới”. Và ở thôn xóm lúc nhúc đầy hạng người: nhờ có chức vị đi lại “tráp giày bệ vệ, rần rần ngựa xe”, những hạng

Thầy thư lại, bác kỳ hào,
Gặm xương mút tủy lao nhao như ruồi…
… Chú trùm, bác kỷ, thầy cai,
Lừa eo, thắt cổ chẳn ai mà chừa.

    Theo Phan Bội Châu thì Phan Châu Trinh là người đi đầu đề xướng dân chủ, và điều đó dẫn đến tranh luận, chia rẽ ý kiến, gây trở ngại cho cuộc vận động võ trang bạo động của Phan Bội Châu. Nhưng hiện nay ta không có tài liệu về phong trào tranh luận giữa các nhà Nho thuộc hai phía. Phan Châu Trinh cũng không viết một bài nào nói rõ tư tưởng dân chủ của mình, ngoài bài diễn thuyết quân trị và dân trị viết sau này vào năm 1925. Phan Bội Châu không phải không thích dân chủ nhưng cụ cho rằng với thực trạng nước đã mất và dân trí kém cỏi thì dân chủ còn là quá cao cả: “Nước không còn nữa thì chủ cái gì?” (Thư gửi Phan Châu Trinh). Phan Bội Châu tập trung viết văn cổ động đoàn kết và cứu nước giành độc lập. Nhưng về sau chính Phan Bội Châu lại đề cập đến nhiều cạnh khía liên quan đến tư tưởng dân chủ. Hoặc là về quan niệm viết sử, hoặc là đề cao người chống triều đình mà cụ cho là dân chủ, hoặc là viết chính cương, tuyên ngôn của chính đảng, hoặc là mô tả sinh hoạt dân chủ trong đảng, viết những bài thơ tố cáo bất công xã hội, nói về dân quyền… Nhưng ý kiến cũng thường tản mạnh, thiếu cái nhìn sâu sắc về các vấn đề chính trị – xã hội. Chính Phan Bội Châu lại cho ta biết nhiều về cách hiểu tư tưởng dân chủ lúc đó, và qua cụ mà ta biết những hạn chế của tư tưởng dân chủ thời đó.

    Cả hai cụ Phan, khi tiếp nhận tư tưởng dân chủ, mong muốn đưa nó ra cứu nước, đều gặp một khó khăn: người dân quá lạc hậu. Hai cụ dầu chủ trương con đường khác nhau nhưng lại rất nhất trí là phải khai dân trí, chấn dân khí, tức là tuyên truyền cổ động để nâng cao tinh thần yêu nước và duy tân, để mở mang hiểu biết cho dân. Nhưng lấy ai để làm công việc “giáo hóa” đó?

    Phan Bội Châu nghĩ đến nhà nho, những người đại biểu cho dân và tin ở sức mạnh văn chương của họ.

Quyết vùng dậy, dơ tay tả đản,
Đứng đầu tiên là bạn làng Nho
… Xin những bậc sĩ phu trong nước,
Có chữ rằng: “Đạo giác tư dân”
Đem lòng nghĩ đến quốc dân,
Lựa dần khuyên nhủ nhau dần từ đây.
Miệng diễn thuyết, dao này chém quỷ
Lưỡi hùng đàm gương ấy soi yêu.

    Đối với dân trí, dân khí nước nhà, Phan Châu Trinh nhìn còn bi quan hơn. Ngoài những bọn nịnh hót, luồn cúi, những bọn ỷ thần cậy thế, có tiền thì ăn chơi: “Suốt cả thành thị cho đến hương thôn, đứa gian giảo thì như ma quỷ, lừa gạt, bóc lột, cái gì mà chẳng dám làm; đứa hèn yếu thì như lợn, như bò, giẫm cổ, đè đầu cũng không dám ho he một tiếng! Cả mấy mươi triệu người, như đàn ruồi, lũ kiến, không còn chút nhân cách nào”, Phan Châu Trinh cũng không tin gì ở đám hủ nho. Đám nhà Nho “ươn hèn, lười biếng, ù ù cạc cạc”. Nhưng nếu nhân dân không có nhân cách thì sao xứng đáng có quyền dân chủ? Và lấy ai mà giành quyền dân chủ? Giống như những nhà Nho, Phan Châu Trinh coi quần chúng chỉ là hạng “tối tăm, mù mịt, mềm yếu, ươn hèn” – dân đen và dân ngu – và tự coi mình là tiên tri, tiên giác, những “chí sĩ, nhân dân” tự nhận lấy trách nhiệm giáo dục đám quần chúng ấy. Nhưng đám “chí sĩ nhân dân” ít ỏi – và theo tính khắt khe của Phan Châu Trinh thì sẽ cực ít ỏi – sẽ cùng ai giành quyền dân chủ và giành quyền dân chủ cho ai? Phải chăng những người tiên tri tiên giác có thẻ ban phát tư tưởng dân chủ và quyền dân chủ cho mọi người? Có thể dùng tư tưởng dân chủ để giáo hóa thì người tiên tri tiên giác cũng có thể dùng chế độ dân chủ – thể chế chính trị – xã hội và luật pháp – để cưỡng chế mọi người. Hạ bệ được ông vua nhưng còn ông cha và ông thầy trên đầu, người dân cũng còn thấy nặng, khó làm chủ.

    Từ quãng cách 80 năm, chúng ta nhìn lại một chặng đường của lịch sử phát triển tư tưởng dân chủ. Quãng cách không quá gần mà cũng không quá xa cho ta thấy dễ dàng thực chất nội dung và phương hướng phát triển của tư tưởng dân chủ, cho ta thấy con đường dài mà chúng ta đã đi được từ đó đến nay. Tư tưởng dân chủ của các nhà nho duy tân, những người tiền chiến nhất của thời đại đó, có rất nhiều hạn chế. Quả thật thực tế đất nước và quan điểm giai cấp của các cụ chưa cho phép các cụ nhìn ra nhiều vấn đề. Nhưng cũng phải nói vốn hiểu biết và cách suy nghĩ kiểu nhà Nho không cho phép nhìn ra cái phi lý, tiếp nhận cái hợp lý. Có sống trong khung cảnh bịt bùng thời đó mới thấy việc các cụ làm lớn lao đến đâu, dũng cảm đến đâu; dân chủ vốn trái ngược với bản chất nhà Nho. Việc làm  của các cụ và những hạn chế mà các cụ còn mắc cho ta thấy sức ràng buộc kinh người của Nho giáo. Yêu nước thương dân đến như thế, nhiệt tình đổi mới đến như thế, đã thấy dược người hủ nho dở đến như thế mà các cụ muốn vượt ra khỏi Nho giáo còn khó khăn hơn biết bao!

 [1] Chống lại hai học phái đối lập đó, Nho giáo cực lực bảo vệ quan diểm trật tự theo thân sơ trên dưới và quan điểm trị dân bằng Đức và Lễ

Nguồn: http://nguyenducmau.blogspot.com/2011/12/tu-tuong-dan-chu-cua-cac-nha-nho-duy.html


Click to listen highlighted text!