Welcome to Nguyễn-Thái-Học Foundation   Click to listen highlighted text! Welcome to Nguyễn-Thái-Học Foundation

Di thảo Nguyễn Trường Tộ: Bàn về Tự Do Tôn Giáo (*)


Di Thảo Số 2

Nguyễn Trường Tộ
(Giáo môn luận) (Ngày 11 tháng 2 năm Tự Đức 16 tức 29 tháng 3 năm 1863)

Trộm nghĩ rằng cái đức lớn của trời đất là sự sống. Sống là gì? Là làm cho muôn vật đều được bảo toàn thiên tính của nó. Vì vậy mà trên trời có sao sáng mây đẹp thì cũng có gió lớn mưa to; dưới đất có lúa tươi thóc tốt thì cũng có cỏ xấu sâu độc. Tuy tốt xấu khác nhau nhưng đều được sinh nở không cái nào bị hại. Như vậy mới sáng tỏ cái đại toàn của trời đất. Chứ cái gì đẹp thì tô bồi, cái gì xấu thì dẹp bỏ, cái gì hay thì che chở, cái gì dở thì huỷ hoại thì không làm sao thấy được cái vĩ đại, cái kỳ diệu của tạo vật. Vì sao lại nói như vậy? Bởi vì nếu trên đời này có ngọt mà không có đắng, người ta sẽ không biết vị ngọ là đáng yêu; có ấm mà không có lạnh, người ta sẽ không biết được cái thích thú của sự ấm áp; có trắng mà không có đen, trắng không thể tự một mình phô bày cái đẹp được; có hoa mà không có gai, hoa cũng không thể một mình tốt tươi được. Cho nên trời đất không vì tốt xấu mà phân biệt mưa xương, không vì văn minh dã man mà phân biệt sự che chở. Muôn vật sống chung đụng với nhau nhưng mỗi vật đều thuận theo tính của nó, đều tự thích nghi, thành hoại thông với nhau, tán mạn đặc thù đều quy về một mối, không bỏ một vật nào cũng không riêng tác thành cho một vật nào cả. Sở dĩ trời đất vĩ đại là vì thế. Tại sao riêng loài người lại không như thế?

Vua đối với dân, xem bề ngoài tuy có tôn ty khác nhau, nhưng bề trong cũng cùng một lẽ sinh thành của tạo vật mà thôi. Tạo vật đối với muôn loài, các việc ăn nghỉ ham muốn đều được theo xu hướng của nó, không cưỡng ép phải làm khác đi cái điều nó yêu thích hay hòa đồng với cái điều nó không ưa. Vì vậy cho nên tuy sống chung lộn với nhau mà vẫn thành đại quan của vũ trụ, không có gì khác. Nếu như muôn loài phản lại cái đức hiếu sinh không chịu theo thiên tính tự nhiên mà đi tàn hại lẫn nhau, lấy lớn ngược đãi nhỏ, họp nhỏ chống lại lớn thì chẳng bao lâu sẽ bị tiêu diệt. Đó chẳng phải là điều tối kỵ của tạo vật hay sao?

Vua đối với dân, là người thay trời mà chăn dắt, theo ý trời mà hành động. Dân sinh ở trên đời, tuy tiếng nói khác nhau, sự yêu chuộng khác nhau, kẻ xứ lạnh người xứ nóng khác nhau, đến hay đi, nghịch hay thuận, miễn sao biết trung hiếu là được cần gì phải câu nệ hình tích bên ngoài mà không xét đến cái gốc ở trong tâm, cưỡng ép phải giống nhau để gây ra rối loạn? Vì thế các bậc thánh vương sửa đổi luật pháp mà không thay đổi tập tục, sắp đặt việc chính trị mà không thay đổi cái gì vốn đã thích nghi cuộc sống. Tuy chương Vương chế trong Kinh Lễ có nói bắt tả đạo, sách Luận Ngữ có nói chống dị đoan. Thế mà thiên hạ không biết bao nhiêu người đã bỏ Phật theo Lão, thánh vương cũng không nỡ cự tuyệt. Bởi vì ghét người ta cho lắm chỉ gây thêm mối loạn mà thôi, vả lại thánh vương cũng không dám làm tổn thương đến cái to tát bao dung của trời đất.

Phàm con người sinh ra trong trời đất, trung hiếu vốn là bản tính chứ không phải cái gì giả tạo từ bên ngoài gán vào. Ví cũng như nước lữa thuận theo thế của nó thì nước chảy vào chỗ trũng, lửa cháy nơi khô. Nếu có cái thế khác làm rối loạn không cho lửa bốc lên, nước chảy xuống, thì đó chỉ là tạm thời mất sự bình thường mà thôi, còn bản tính của nó vẫn không bao giờ mất. Dữu dân (1) cũng là người, ai lại không có lòng trung hiếu? Sở dĩ phải tránh đi xa mà mong nhờ cứu giúp, gọi người khác bằng cha, gọi người khác bằng mẹ là vì thời cùng thế bức, cực chẳng đã phải tạm trốn tránh chứ đâu phải trong lòng muốn như vậy! Không thấy như con đối với cha mẹ đó sao? Hễ bị đòn nhỏ thì chịu, đòn lớn thì bỏ chạy là vì lợi hại thiết thân, không thế không được. Vì vậy sự thuận mệnh cũng có khi không thể làm được.

Xét ra đạo Công giáo (2) vào nước ta từ thời Lê. Trước tiên các giáo sĩ Bồ Đào Nha đến giảng đạo ở tỉnh Hưng Yên, tiếp đến có các giáo sĩ người Pháp, người Y Pha Nho đến, được nhiều người tin theo. Lúc bấy giờ giáo dân và những người trong ba đạo (Phật, Lão, Khổng) tuy tín ngưỡng khác nhau nhưng vẫn ân ái tiếp đón nhau, lễ nghĩa đối đãi nhau, năng lui tới với nhau không có gì hiềm nghi, đều là con dân của nước nhà mà thôi. Từ khi ban hành lệnh nghiêm cấm thì mới sinh ra ghen ghét kỳ thị nhau, do ghen ghét kỳ thị nhau mới sinh ra tội lệ. Từ đấy giáo dân bị phiền nhiễu đến nỗi phải lưu ly thất sở mà mắc vào vòng hình phạt. Nước vốn trong, có quấy lên mới bị đục, nếu ngừng thì chốc lát sẽ trong trở lại.

Giáo dân cũng là người trong nước, đều là người cả, cũng là dân của trời, sự ăn ở có liên quan nhau, vui buồn liên quan nhau. Lẽ nào bên này động mà bên kia lại yên được sao? Một nước ví như một thân thể. Một chỗ bị đau thì toàn thân cũng không yên. Một cục thịt thừa, một ngón tay đeo thật hết sức vô dụng thế mà cắt bỏ đi thì đau, huống chi là tay chân hữu dụng! Trời đất đối với các hành tinh, một nước đối với dân chúng, sự liên quan lệ thuộc duy trì cũng một lẽ như nhau. Nếu trên trời có một hành tinh bị động, các hành tinh khác cũng nhân đó mà có chút biến đổi, huống chi dân là gốc của một nước, dân bị tao động lẽ nào nước không sinh họa loạn? Không thấy thượng đế là chúa tể cai trị các nước cũng như vua là chúa tể trị vì một nước đó sao? Các nước khác nhau rất xa về ngôn ngữ, phong tục và sự ưa chuộng, nhưng thượng đế cũng lấy một lẽ mà đối chung cả vạn vật khiến tất cả đều thuận theo trật tự, đều thỏa ý nguyện, không bắt tất cả phải giống hệt nhau. Có thế mới sáng tỏ cái tài năng lớn, cái uy quyền trọng và cái độ lượng rộng rãi. Trong một nước, tuy nhân dân có phân chia nhà cửa khác nhau, nhưng vua cũng chỉ lấy một quyền mà thống trị dân chúng, lấy một trí mà liên kết muôn dân, khiến dân tình đều được yên ổn, hành động tuy khác nhau nhưng đều lương thiện, chí hướng khác nhau nhưng đều đáng quý cả. Như thế thì chẳng những không tổn hại về mặt chính trị mà còn cho thấy cái tài khéo trong việc trị nước nữa.

Phàm có vạn thứ không giống nhau thì gọi là giàu, không cái gì không chứa đựng được hết gọi là lớn, chồng chất thành đống nhiều lớp mà không chống chõi nhau gọi là khéo, nhiều thế lực khác nhau, nhiều tính tình khác nhau mà hợp được làm một để sử dụng gọi là giỏi. Cho nên tạo vật nặn đúc ra không đồng một hình dạng, một khuôn khổ, một ngôi vị, một xứ sở mà sinh ra vô số hình thái khác nhau, phương hướng khác nhau để nhiếp trị. Thế mới thấy được cái giàu lớn khéo giỏi của tạo vật. Sở dĩ thượng đế chế trị đại địa cũng như con người ta lập các tôn giáo riêng, không bắt ép cái này phải nhập vào cái kia là vì có thâm ý trong đó.

Vua đảm đang công việc giúp thượng đế không phải là vua có thể biệt lập một trời đất mà một mình cầm quyền được, chẳng qua chỉ là nhân các dân vật đã được thượng đế tạo thành an bài đó mà thương yêu làm cho an ổn, để thông suốt cái chí của thiên hạ, để soi thấu cái tình của muôn vật mà thôi. Như thế sao lại muốn chấn hứng hay tiêu diệt được để trái lại trời hay sao?

Từ xưa đến nay trên mặt đất lớn lao này có nhiều đạo khác nhau đã được thành lập ở nhiều nơi. Đạo Công giáo khởi từ Tiểu Tây, Hồi giáo từ Thiên Phương (Ả Rập), Phật giáo khởi từ Thiên Trúc (Ấn Độ), Tây Tạng có Lạt Ma tọa sàng, Trung Quốc có Nho, Mặc, Trang, Lão. Phàm nơi nào có dấu chân người đặt đến thì các tôn giáo cũng theo người mà truyền vào. Hễ nước nào có thanh danh văn vật, xứ nào có giao thông trù mật thì người theo đạo đông đúc. Nứơc càng thịnh vượng thì tôn giáo càng nhiều. Nước dã man thì tôn giáo ít. Lấy tôn giáo nhiều hay ít mà xem nước ấy có hưng thịnh hay không thì thấy tôn giáo nhiều, nước càng hưng thịnh.

Tuy vua các nước tuỳ theo mỗi đời có sự ưa thích khác nhau nhưng đầu tiên đạo giáo do một người truyền bá ra, kế tiếp theo có hàng nghìn vạn ức người phụ họa theo, và cũng có vạn ức người bài bác lại. Nhưng chưa từng thấy đạo nào vì được phụ họa mà chấn hưng được hết cả, hay bị bài bác mà bị tiêu diệt hết cả. Ngoài ra còn có các ngoại đạo ở các nước nhỏ, và các xứ ven biên không kể hết được, nhưng cũng chưa nghe nước nào vì đạo giáo nhiều mà phải mất nước. Quay ngược về xưa mà xem thì giặc Khăn Vàng (Hoàng Cân) vốn vì theo Lão Tử, loạn Hồ vốn bởi theo Mâu Ni. Ngoài ra như Hoàng giáo, Bạch giáo và các đồ đảng Đại Thành, Từ Đoàn tụ tập quần chúng xướng loạn, mà cũng chưa từng nghe các triều đại ấy dùng hình pháp nghiêm khắc để tiêu diệt các tôn giáo ấy. Thực ra những tệ hại đó là do người làm ra mà thôi. Lý thuyết và lễ văn của các tôn giáo tuy có khác nhau, nhưng đem hết sách của các tôn giáo mà xem thì không tôn giáo nào không lấy trung hiếu làm gốc. Nếu không như thế thì người có lương tâm ai chịu tin theo.

Xưa nay, những loạn thần tặc tử ai là người không đọc sách, ai là người không phục lời của Khổng Mạnh. Cớ sao lại trộm lấy cái trí năng của thánh nhân mà làm thân đạo tặc? Như thế là lỗi tại ai? Tại người hay tại tôn giáo? Nếu cứ ai đồng với mình thì dù tệ cũng bỏ qua, còn ai khác với mình thì chỉ trích khắt khe mà đổ cho giáo pháp ấy không tốt, thử hỏi công lý ở đâu?

Từ xưa đạo Công giáo đã phát hưng ở miền Tây phương Đông, miền Nam phương Bắc, miền Đông phương Tây, nhất thống toàn thịnh như Đại Tần (tức La Mã), tung hoành cát cứ như nước Mông Cổ và những nước rộng đến 5, 6 nghìn dặm la liệt như sao trên trời, bày bố khắp như quân cờ, vua tướng ở các nước ấy quyền quý, thông minh, hùng hổ, đều nổi dậy mưu hại giáo đồ. Hơn 300 năm nay, số giáo dân bị giết hại, thống kê số người có tên họ bị chôn ở nhà đá có đến trên mười triệu người; còn những người vô danh khác bị vùi lấp như kiểu giáo dân ở Biên Hòa (của ta) thời không kể xiết. Lúc bấy giờ như ở hai nước Pháp, Y Pha Nho, số giáo dân bị độc hại cũng hằng hà sa số. Nhưng giết một người thì có nghìn người theo, giết mười người thì có vạn người theo thêm. Vua tướng các nước đã không tiêu diệt nổi đạo, mà trái lại được đạo cảm hóa. Vì sao vậy? Vì phàm vật gì có sức lớn mà lại có gốc nguồn thì càng bị quấy rối di động càng xuất hiện mãi mãi không cùng. Như nước và lửa, có ai có thể múc hết nước, dập tắt hết lửa?

Đạo Công giáo đã thịnh hành từ Đại Tây, Tiểu Tây rồi dần dần chuyển qua Đông Nam. Và đã 300 năm nay cũng bị các nước ở đấy ngăn trở sát hại như ở phương Tây trước kia. Thế mà người theo đạo ngày càng đông. Theo thống kê ở Trung Quốc thời Minh đạo đã có hơn 60 vạn. Còn như người nước ta, Nhật Bản, Cao Ly, Miến Điện, Thiên Trúc, Ba Tư, Tây Tạng, Hung Nô, Lữ Tống và các đảo ở ngoài bể thì không kể trong số này. Càng cấm mà người theo càng đông là vì sao vậy? Vì rằng tạo vật quý trọng sự sống vô cùng, thường hay phù trợ những người bị mưu hại. Nếu không phù trợ mà còn giúp kẻ có thế lực được thỏa lòng sát nhân thì thiên hạ sẽ bị kẻ lớn mạnh nuốt hết, mà kẻ nhỏ bé sẽ không còn nòi giống nữa. Huống chi các vua thường nghiêm cấm đạo mà người truyền đạo thì vẫn tiếp nối nhau đời này sang đời khác không thôi. Tuy hoặc có lúc hơi bị áp chế nên tạm ngừng, nhưng lúc ấy, chính là lúc củng cố vun bồi để sẽ phát sinh thêm nữa. Ví như suối ở trên núi, nguồn suối càng sâu càng dài, thì nước tuôn ra càng xa càng mạnh. Như thế là những cái gì mà trời dung thì người không thể tiêu diệt hết. Nếu như quả là trời dung mà người diệt thì lẽ nào tạo vật không có quyền lực để xử việc đó?

Giáo dân cũng do tạo vật sinh dưỡng và đạo giáo cũng do tạo vật bảo dưỡng, huống chi giáo dân cũng là một thành phần của nhân dân trong nước? Trong số đó nếu có kẻ bội nghịch chẳng qua cũng chỉ một phần nghìn phần trăm mà thôi, tại sao không minh xét, mà cứ đổ riết cho tất cả là nghịch? Do đó mới coi những người theo đạo vô luận lớn bé trẻ già, trung nịnh trí ngu đều đáng xua đuổi sát hại như chim non chuột thối. Nếu làm như thế mà hợp với lòng của tạo vật, thì tạo vật vốn là bậc cha mẹ của muôn loài sao không sớm tiêu diệt đạo ấy đi còn để truyền lan làm gì cho khắp thế giới phải sa hầm mắc bẫy? Chắc chắn không phải như vậy…

Nói tóm lại, bất kỳ trong đạo giáo nào, hễ ai phản nghịch loạn thường đều là người đắc tội trong tôn giáo, cứ áp dụng hình pháp không tha để cho đạo giáo được trong sạch. Còn ai yên phận tuân theo pháp luật thì để cho họ tự nhiên có hại gì đâu? Đồng hành mà không nghịch nhau là được, cần gì bắt phải nhất tề những cái mà tạo vật không thể nhất tề, cũng không cần thiết phải nhất tề, để làm tổn thương hòa khí? Kính mong đại nhân ra sức hồi thiên (3) đem lòng hiếu sinh bắc cầu cho kiến qua (4) để được cùng với trời đất góp phần ích dụng. Nói một tiếng khiến giáo dân được mang ơn một phần. Đó cũng là hợp với câu “đại đức viết sinh” (5) vậy. Xin dâng lời thô ngu, kính mong cao minh lượng xét.

Nguyễn Trường Tộ ký

Chú thích

(*) Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/1 tờ 45-53; Hv 634/1 tờ 109-111; Hv 135 tờ 105-117; NAM PHONG số 118 trang 65-70

Nội dung của cả 4 bản đều gần hoàn toàn giống nhau, chỉ trừ một vài chỗ do chép sai, chép sót. Bản Hv 189/1 có tiêu đề, có ngày tháng (11-2 năm Tự Đức 16) có thể là bản thảo ban đầu, được lưu giữ trong gia đình Nguyễn Trường Tộ.

Các bản Hv 634/1, Hv 135 và NAM PHONG số 118 có thể được sao chép từ một bản chính thức gởi kèm theo bài Trần tình, vì thế mà không có tiêu đề, không có ngày tháng năm. Từ Ngọc Nguyễn Lân, sđd, tr.123, có trích một đoạn của bài này, nhưng không nói xuất xứ, cũng không nói ngày tháng.

NAM PHONG số 117, ởcuối bài có ghi 23 tháng 7 năm Tự Đức 19, nhưng chắc là chép lầm, bởi vì vào thời điểm này, vua Tự Đức đã có dụ tha đạo, người Công giáo có gặp khó khăn phải chăng là do địa phương.

(1) Dữu là cỏ xấu phá hại cây lúa. Thời Công giáo bị ngược đãi, trong khoảng từ Minh Mạng đến gần cuối Tự Đức, người Công giáo bị gọi là Dữu dân để phân biệt với lương dân.
(2) Trong nguyên bản bằng Hán văn, Nguyễn Trường Tộ dùng từ “đạo giáo”, nhưng “đạo giáo” đây là tác giả muốn nói “Công giáo”.
(3) Hồi thiên: Làm cho vua hồi tâm nghĩ lại. Tích Truơng Huyền khuyên can Đường Thái Tôn bỏ việc tu bổ cung Lạc Dương. Người ta gọi Trương Huyền có sức hồi thiên. Đây có ý nói khuyên vua bỏ việc cấm đạo.
(4) Bắc cầu cho kiến qua (biên kiều độ nghị) do tích Vương Tăng đời Tống bên Trung Quốc là một người đã từng đậu trạng nguyên làm Tể tướng. Thuở nhỏ có hôm nhân đi qua một chỗ có nhiều tổ kiến bị nước ngập, ông bèn lấy cành tre bắt ngang làm cầu cho kiến bò qua khỏi chỗ nước chảy, khỏi bị ngập chết trôi. Tác giả dẫn tích này cốt nói trẻ nhỏ mà có lòng nhân đức biết quý trọng sự sống. Vì vậy mà về sau trở thành một vị danh thần. Ý nói cứu được nhiều sinh linh.
(5) Câu “Thiên địa chi đại đức viết sinh” nghĩa là đức lớn của trời đất là sự sống.

Nguồn: www.dunglac.net


Nguyễn Trường Tộ – phân tích qua bản di thảo số 2:
BÀN VỀ TỰ DO TÔN GIÁO

NGUYỄN TRƯỜNG TỘ TRONG CHIÊU BÀI CANH TÂN
Bùi Kha
PHẦN BA   

Chúng ta sẽ phân tích thêm một số bản Điều Trần quan trọng khác của Nguyễn Trường Tộ về vấn đề tôn giáo, để thấy rõ thêm bản chất. Nhà Canh Tân Vĩ Đại Của Dân Tộc như thế nào? Thế kỷ 19, vấn đề truyền đạo luôn luôn song hành với phong trào đi chiếm thuộc địa. Nhiều lúc truyền giáo là một cái cớ và tự do tôn giáo là một khí cụ lợi hại cho chủ nghĩa thực dân. Ông Nguyễn Trường Tộ hay tự khoe là người thông thái nhưng ông đã không biết hay cố tình làm hại cho đất nước ông qua một bản điều trần về tôn giáo mà chúng ta sẽ thấy sau đây.  

Chương 1

TỰ DO TÔN GIÁO

Qua bản di thảo số 2 , chúng ta sẽ thấy những nhận xét sai lầm của NTT về tôn giáo.

Trong phần đầu của bài viết nầy tôi đã cố tránh vấn đề Gia Tô giáo. Vì không phải mục đích của bài viết nầy là để bàn về cái đó. Nhưng xét thấy, lúc Bàn Về Tự Do Tôn Giáo (Giáo Môn Luận) và các bản Điều Trần có tính tôn giáo cũng là những bài quan trọng của Nguyễn Trường Tộ, nên tôi phải thảo luận thêm vài điểm chính của Gia Tô giáo. Để từ đó, chúng ta sẽ thấy cái oái oăm đau thương của vận mạng dân tộc, đồng thời cũng để thấy được cái đúng cái sai của tư tưởng Nguyễn Trường Tộ về vấn đề tôn giáo nói chung.

Sơ Lược Về Thuyết Thượng Đế, Thánh Kinh Và Hành Động Của Gia Tô Giáo.

Ki Tô giáo (gồm cả đạo Gia Tô La Mã và Tin Lành) khởi đi từ ý niệm tin rằng Thượng đế sinh ra vạn vật, và tổ tông của loài người là ông Adam và bà Eva. Hai người nầy bị rắn dụ dỗ ăn trái táo Thượng đế cấm vì thế mà mang tội, con cháu của hai ông bà về sau, tức là cả nhân loại, bị tội tổ tông từ ông Adam và bà Eva mà ra. Do đó, mới có thuyết Chúa Ki Tô giáng trần để chuộc tội cho nhân loại.

Câu chuyện về Thượng Đế (God) được trình bày rõ ràng tỉ mỉ trong cuốn sách có tựa đề “How The Great Religions Began (Các Tôn Giáo Lớn Được Bắt Đầu Như Thế Nào), tác giả là giáo sư Joseph Gear, dạy khoa Tôn Giáo Đối Chiếu (Comparative Religions).

Giáo sư Gear khám phá ra rằng cách đây trên 4000 (bốn ngàn năm) tại tỉnh UR, địa phận Chaldae, nằm giữa sông Euphrates và Tigris vùng Trung Đông (Do Thái, Ai Cập…) có ông thợ làm đồ gốm (đất sét) tên Terah. Ông nặn tượng đủ các loại thần như thần cây, thần sông, thần núi, thần lửa (giống như thần bình vôi ông táo ở VN). Thiên hạ trong vùng mua về thờ. Họ tin rằng các vị thần nầy sẽ phù hộ cho họ trong cuộc sống.

Một hôm ông Terah sai đứa con lớn tên là Abraham vào dọn dẹp xưởng nặn tượng. Abraham đập bể tất cả các tượng đã nắn xong sẵn sàng để bán. Sáng hôm sau ông bố vào xưởng thấy tượng bể ngổn ngang thành những mảnh đất sét vụn. Bị bố vặn hỏi lý do, người con trả lời rằng các ông thần nầy cãi lộn, đánh nhau vỡ tan tành chỉ còn một ông sống sót đang cầm cái búa trong tay. Dĩ nhiên là bố không tin lời giải thích hoang đường ấy, cuối cùng người con thú nhận đã đập vỡ các pho tượng.

Vì sợ dân trong vùng biết chuyện tượng thần mà họ hằng tin tưởng nay bị đập vỡ, nên bốn bố con ông Terah dời nhà về vùng Canaan tức là nước Palestine bây giờ. Abraham còn có tên là Ibri (Hebrews tiếng cổ của Do Thái). Ông lập nghiệp tại đây và sinh được một người con tên là Isaac.

Issac sinh Jacob. Jacob có tên là Israel, con cháu của Israel gọi là Israelites. Dòng họ nầy sinh nhiều tạo thành một bộ lạc, sống nghề chăn chiên. Con thứ 11 của Jacob (Israel) là Joseph đã dẫn cả bộ lạc của mình qua Ai Cập để sống vì nạn đói tại địa phương.

Dân Ai Cập rất ghét dân Israel vì người Ai Cập thờ đủ loại thần như thần chó, mèo, trâu, bò, cá sấu… mà dân Israel thì không. Vua Ai Cập bắt dân Israel làm nô lệ để họ phải thờ thần như người chủ của họ, nhưng họ vẫn hờ hững. Vua Ai cập ghét, ra lệnh giết tất cả các trẻ sơ sinh của dân Israel bằng cách nhận xuống nước.

Có một em bé tên Moses (Môi Se), bị thả trôi sông trên một cái giỏ. Công chúa vua Ai Cập tắm sông, vớt được đem về nuôi. Lúc lớn lên Moses thấy người Ai Cập hành hạ người nô lệ Israelites (cũng gọi là Hebrews) Moses bèn giết người lính Ai Cập rồi ít lâu sau ông dẫn cả đoàn người Hebrews ra khỏi căn nhà nô lệ. Moses cùng em là Aaron tới gặp Vua Ai Cập và nói rằng Thượng Đế sai tôi tới đây để đòi cho dân Hebrews được tự do. Vua Ai Cập (Pharaoh) mở sách có liệt kê Thượng Đế của dân các bộ lạc Edom, Moab v.v… nhưng không thấy tên Thượng Đế của Moses đâu cả, nên không trả tự do cho dân Hebrews, Moses đưa cho Pharaoh xem cây gậy thần có chữ D viết tắt chữ Daan có nghĩa là máu. Moses nói sẽ làm cho dân Ai Cập đổ máu và sẽ giết tất cả những ai là con sinh đầu lòng. Vua Pharaoh sợ vì ông là con đầu lòng. Câu chuyện thần thoại cho rằng, Moses có tài biến hóa, tạo ra ếch nhái xuất hiện khắp xứ Ai Cập và nhiều phép lạ khác. Vì thế Pharaoh cho Moses dẫn đoàn người Do Thái (Israelites) ra khỏi ngục tù nô lệ và về trú tại Vùng Đất Hứa (Promised Land, hay vùng Canaan) tức là xứ Palestine bây giờ.

Đoàn người Do Thái nầy tin rằng Vùng Đất Hứa là đất mà Thượng Đế dành cho một giống dân được Thượng Đế chọn lựa (Chosen People).

Trước lúc tới Vùng Đất Hứa, Moses dẫn đoàn người qua núi Sinai, ông để họ nghỉ tại chân núi, còn ông lên trên đỉnh núi. Sau 40 ngày ông xuống và cầm theo một tấm đá có khắc 10 điều răn (Ten Commandments) và nói là của Thần (God). Hai trong 10 điều giáo lệnh đó là cấm dân Hebrews không được thờ bất cứ một loại thần nào ngoại trừ thần Jehovah cũng gọi là Yahweh và cấm không được giết người. Nhưng chính Moses giết người lính Ai Cập và giết những người thờ bò vàng (Golden calfs) dưới chân núi.

Từ hơn 3000 năm nay tín đồ Do Thái làm lễ Vượt Qua (Passover) vào ngày thứ Bảy, để tưởng nhớ ngày Moses dẫn họ vượt ra khỏi Ai Cập sau hơn 400 năm làm nô lệ.

Đó là tóm lược sự tích về thần hay cũng gọi là Thượng Đế (God) trong cuốn sách kể trên (tóm lược và dẫn theo Hoàng Hà Thanh trong cuốn Kitô Giáo Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại. Văn hóa California xuất bản, Hoa Kỳ 1996, trang 15-19).

Chữ God (tiếng Anh) dịch đúng nghĩa là thần. Do đó, mới có môn Thần học (Theology). Nhưng để tăng vẻ quan trọng và thần thánh hóa, người Gia Tô Việt Nam dịch là Thượng Đế cũng còn được gọi là Chúa trời (Lord).

Đoạn tóm lược về sự tích Thượng Đế nêu trên cho chúng ta biết sự xuất xứ gốc tích của Thượng Đế qua nhiều thế hệ để phát triển bộ lạc, để giữ đất, người ta đã phủ lên danh từ God, một màu sắc thần bí và gán cho nó một nhiệm vụ là tạo ra trời đất muôn loài. Nhất là thời hoàng đế Constantine thế kỷ thứ tư. Theo ông Geoffrey Post báo Register, chủ nhật 25, 9-1988, Cali, Hoa Kỳ. Hoàng đế Constantine đã đốt tất cả kinh sách của Ki Tô giáo, và thuê người viết lại theo quan điểm và chính sách của thời đại ông, để giữ thuộc địa và bành trướng thế lực.

Qua nhiều lần sửa đổi bởi nhiều người phàm trần viết, nhưng sợ thiên hạ không tin. Vì thế, lại phủ lên những màu sắc thần bí khác rồi gọi đó là Thánh Kinh chứ không phải Phàm Kinh.

Bởi vì không đọc Thánh Kinh, không biết sách lược của thực dân nên Nguyễn Trường Tộ, cuồng tín đi theo họ, rồi đưa ra những nhận định sai lầm về Thượng Đế (Tạo vật, Chúa trời) như sau:

1.- Không thấy Thượng Đế là Chúa tể cai trị các nước cũng như vua là chúa tể trị vì một nước đó sao? Các nước khác nhau rất xa về ngôn ngữ… nhưng Thượng đế cũng lấy một lẽ mà đối chung cả vạn vật khiến tất cả đều thỏa ý nguyện… có thế mới sáng tỏ cái tài năng lớn…và cái độ lượng rộng rãi…Vua đảm đang công việc giúp Thượng Đế không phải là vua có thể biệt lập một trời đất mà một mình cầm quyền được, chẳng qua chỉ là nhân các dân vật đã được Thượng Đế tạo thành an bài đó mà thương yêu làm cho an ổn…(Giáo Môn Luận, TBC, sách đã dẫn trang 116 & 117).

So sánh đoạn văn trên của Nguyễn Trường Tộ với sắc lệnh của Giáo Hoàng Martin V (1417-1431), sau đây chúng ta thấy có những ý tứ trùng hợp:

Sắc lệnh phát xuất từ nguyên lý là tất cả đất đai đều thuộc về Chúa Ki Tô và người đại diện Chúa Ki Tô (tức là Giáo Hoàng, BK) có quyền xử dụng tất cả các đất đai của người không theo đạo Gia Tô, những kẻ ngoại đạo không có quyền sở hữu một mảnh đất nào. Nếu những người phi Gia Tô được cấp phát đất đai thì họ phải theo đạo Gia Tô dù tự ý hay bị cưỡng bách.

Năm 1493 Giáo Hoàng Alexandre VI cũng ký sắc lệnh chia thế giới cho Bồ Đào Nha và Tây Ba Nha, và buộc họ phải truyền đạo để giải thích lý do việc chiếm thuộc địa.

Nguyên văn tiếng Pháp:

La bulle, écrit Henri Martin, partait du principe que la terre appartient au Christ et que le vicaire du Christ a droit de disposer de tout ce qui n’est point occupé par des chrétiens, les infidèles ne pouvant être légitimes possesseurs d’aucune portion de la terre. Le don des terres détenues par les infidèles entrainait implicitement l’assujettissement des habitants pour leur plus grand bien, pour leur conversion volontaire ou forcée à la loi chrétienne”. Plus tard le Page Alexandre VI, de par la bulle de 1493, partageait le monde entre le Portugal et l’Espagne en leur imposant l’obligation de propager la foi du Christ en tant que justification de toute occupation. La bulle pose formellement comme conditon de toute mise en possession le devoir de catéchiser tous les indigèles. (Henri Martin, Histoire de France, Paris, Furme… T. VII p. 293), CHT, SĐD, trang 7).

Đối với tín hữu đạo Gia Tô, thì Giáo Hoàng là người đại diện duy nhất cho Chúa. Từ đó, chúng ta mới thấy cái thâm ý của Nguyễn Trường Tộ: -Không thấy Thượng Đế là Chúa tể cai trị các nước… – mà Giáo Hoàng là đại diện cho Thượng Đế. Vậy Giáo Hoàng có quyền cai trị các nước! Và – Vua đảm đang công việc giúp Thượng Đế… – mà Giáo Hoàng là đại diện cho Thượng Đế. Như vậy, vua chỉ là người giúp việc cho Giáo Hoàng mà thôi! Thế thì Giáo Hoàng có thể cách chức vua bất cứ lúc nào! Con người “thông thái” như Nguyễn Trường Tộ trình bày có khác!

Đoạn văn trên Nguyễn Trường Tộ cũng rập khuôn theo mấy cố đạo người Tây để nói rằng Thượng đế độ lượng. Trong Di Thảo Lục Lợi Từ ở phần trước mục số 5 (tr. 72-73) Nguyễn Trường Tộ cũng nói rằng Tạo Vật yêu người, Tạo Vật quí trọng sự sống, Tạo Vật nhân ái… nhưng thực tế đó là một ông thần (God) rất dã man qua đoạn trích trong Thánh Kinh dưới đây:

Dân Số Ký (Numbers) là một trong năm cuốn Kinh Cựu Ước của Gia Tô Giáo, Chương 31, đoạn 1 đến đoạn 46 cho ta những chi tiết như sau:

Đức Chúa Trời bảo ông Môi-Se rằng Hãy báo thù dân Do Thái, thuộc giống Mi-đi-an rồi người sẽ được về làm dân nước Chúa (31:1-2). Vì vậy ông Môi-Se truyền cho dân rằng: Các ngươi hãy sắm sửa binh khí mà ra trận hãm đánh dân Mi-đi-an để báo thù cho đức Chúa Trời (31:3). Vậy, chúng giao chiến cùng dân Mi-đi-an, như đức Chúa Trời đã bảo ông Môi-se và giết hết thảy đàn ông (31:7). Dân Y-sơ-ra-ên bắt đàn bà và con nít Mi-đi-an dẫn theo. Cướp hết thảy súc vật, bầy chiên và của cải họ (31:9), đốt hết thành, nhà ở, và quê hương chúng nó (31:9) cũng lấy đem theo hết thảy của đoạt được, bất kỳ người hay vật (31:11). Bây giờ hãy giết hết thảy các người đàn ông trong đám trẻ con và giết những người đàn bà nào mất trinh (31:17), nhưng các cô gái còn trinh thì để lại làm quà cho các giáo sĩ và binh lính (31:18).

Ông Môi-se và E-lê-a-sa, thầy dòng, làm y như lời đức Chúa Trời dạy bảo (31:31). Tài sản cướp được là 675 ngàn con chiên cái, 72 ngàn con bò, 61 ngàn con lừa đực (31:34) và 32 ngàn cô gái còn trinh (31:35). Số 675 ngàn con chiên cái nói trên chia cho các binh lính 50% còn đức Chúa Trời 50% (31:35-36)…16 ngàn cô gái còn trinh chia cho binh lính, 32 cô dâng cho đức Chúa Trời (31:40). Môi-se và E-lê-a-ra lấy vật cướp được và cô gái còn trinh bắt được dâng cho đức Chúa Trời, y như đức Chúa Trời đã phán dặn cùng Môi-se. (31:41).

Chính Chúa Trời chứ không phải ai khác đã trực tiếp ra lệnh phải cướp của, giết người, cưỡng dâm. Rồi chính “đức” Chúa Trời cũng đòi thụ hưởng gái trinh nữa! Thế mà Nguyễn Trường Tộ nói Chúa Tạo Vật, Thượng đế độ lượng, thương yêu, nhân ái…

Sau đây là nguyên văn Anh ngữ để quí độc giả đối chiếu: (Kinh Cựu Ước, cuốn Numbers, chapter 31, từ đoạn 2, 3, 7 – 41):

And the Lord spake unto Moses, saying, 2 Avenge the children of Israel of the Mid’i-an-ites: afterward shalt thou be gathered unto the people.

3 And Moses spake unto the people, saying, Arm some of yourselves unto the war, and let them go against the Mid’i-an-ites, and avenge the Lord of Mid’i-an.
…………….

7 And they warred against the Midi-an-ites, as the Lord commanded Moses; and they slew all the males.
…………….

9 And the children of Israel took all the women of Mid’i-an captives, and their little ones, and took the spoil of all their cattle, and all their flocks, and all their good.
10 And they burnt all their cities wherein they dwelt, and all their goodly castles, with fire.
11 And they took all the spoil, and all the prey, both of men and of beasts.
…………..

17 Now therefore kill every male among the little ones, and kill every woman that hath known man by lying with him.
18 But all the women children, that have not known a man by lying with him, keep alive for yourselves.
……………..

31 And Moses and E-le-a’zar the priest did as the Lord commanded Moses.
32 And the booty, being the rest of the prey which the men of war had caught, was six hundred thousand and seventy thousand and five thousand sheep.
33 And threescore and twelve thousand beeves.
34 And threescore and one thousand asses.
35 And thirty and two thousand persons in all, of women that had not known man by lying with him.
36 And the half, which was the portion of them that went out to was, was in number tree hundred thousand and seven and thirty thousand and five hundred sheep:
………………

40 And the persons were sixteen thousand; of which Lord’s tribute was thirty and two persons.
41 And Moses gave the tribute, which was the Lord’s heave offering, unto E-le-a’zar the priest, as the Lord commanded Moses.

Chúng ta có thể thông cảm ông Nguyễn Trường Tộ về thuyết vũ trụ và sinh vật mà khoa học mới khám phá sau nầy. Nhưng ở thời đại của ông (1830-1871) ít nhất là đã có ba cuốn sách nổi tiếng viết về vũ trụ, về Thượng Đế và Kinh Thánh, và về sự tiến hóa của sinh vật. Đó là cuốn Dictionnaire Philosophique (1764) của Voltaire; cuốn The Age of Reason của Thomas Paine (1737-1809) và cuốn The Origin of Species (1859) của Darwin.

Nguyễn Trường Tộ tự khoe: Về việc học cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ… không môn nào tôi không khảo cứu (Di Thảo số 3. TBC, SĐD, trang 120). Nếu việc học quả tình được như vậy, thì ông Nguyễn Trường Tộ nên đọc Kinh Thánh và đọc ba cuốn sách vừa kể trên để khỏi bị mấy giáo sĩ Pháp lừa gạt và không nên tin những điều sai lầm.

Với những lý sự cuồng tín về tôn giáo, hiểu sai vai trò và sự có thật của tạo vật, của Thượng Đế, Nguyễn Trường Tộ lặp đi lặp lại nhiều lần trong bài Trần Tình về Giáo Môn Luận nầy và rải rác hầu hết 58 bài Trần Tình của ông, đã làm cho ông có một cái nhìn sai lầm về lịch sử và cổ xúy cho việc hợp tác với thực dân Pháp và Vatican mà tôi đã chứng minh và sẽ chứng minh đó là giải pháp rất tai hại.

Trong Giáo Môn Luận, Nguyễn Trường Tộ viết tiếp:

2.- Xét ra đạo Công Giáo vào nước ta từ thời Lê. Trước tiên các giáo sĩ Bồ Đào Nha đến giảng đạo ở tỉnh Hưng Yên, tiếp đến có các giáo sĩ người Pháp, người Y Pha Nho đến, được nhiều người tin theo. Lúc bấy giờ giáo dân và những người trong ba đạo (Phật, Lão, Khổng) tuy tín ngưỡng khác nhau nhưng vẫn ân ái tiếp đón nhau, lễ nghĩa đối đãi nhau, năng lui tới với nhau không có gì hiềm nghi, đều là con dân của nước nhà mà thôi. Từ khi ban hành lệnh nghiêm cấm thì mới sinh ra ghen ghét kỳ thị nhau, do ghen ghét kỳ thị nhau mới sinh ra tội lệ. Từ đấy giáo dân bị phiền nhiễu đến nỗi phải lưu ly thất sở mà mắc vào vòng hình phạt. Nước vốn trong, có quấy lên mới bị đục nếu ngừng thì chốc lát sẽ trong trở lại”. Bản Điều Trần số 2 Giáo Môn Luận. ( TBC, SĐD, trang 116).

Đoạn trên Nguyễn Trường Tộ cho rằng vì lệnh cấm đạo nên mới sinh ra ghen ghét, kỳ thị, tội lệ, giáo dân bị lưu đày và bị hình phạt, là những ý tưởng rất sai lầm và chắc chắn nếu ai có lòng yêu Tổ Quốc thì cũng không thể chịu được các kế hoạch thực dân xâm lược của các ông cố đạo sau đây:

2.1.- Linh mục Legrand De La Liraye viết:

Theo thần, chiến tranh là cách duy nhất để đạt kết quả nghiêm chỉnh tại nước đó. Cần phải chấp nhận chiến tranh như là cách tốt nhất, phải đánh gấp ở Bắc Kỳ, Huế và Đà Nẵng cùng lúc, nếu được thì lật đổ chính phủ, bàn chuyện giải phóng cho hai dân tộc thua trận ở Cochinchine và đặt lên ngôi ở Bắc bộ một kẻ giả danh là con cháu nhà Lê.

Nguyên văn tiếng Pháp:

La guerre suivant moi est le seul moyen d’arriver avec ce pays à un résultat serieux. Il faut l’accepter comme ce qu’il y a de mieux, la faire avec promptitude au Tonkin, à Huế et Tourane à la fois, renverser s’il y a moyen le gouvernement, parler de l’emancipation des deux peuples vaincus en Cochinchine et du placement sur les trône d’un pretendant de la famille des Lê au Tonkin. (CHT, SĐD, trang 72).

2.2.- Giám mục Retort (viết thư cho M. Kleckowski):

Nước Pháp cần phải làm cái gì lớn lao quan trọng lâu dài, xứng với nó và Hoàng Đế của nó. Nếu nước Pháp chinh phục xứ nầy (có lẽ việc nầy không khó) và cai trị trực tiếp, người dân Bắc Kỳ sẽ bằng lòng, nhưng họ thích sống dưới sự bảo hộ và ảnh hưởng của Pháp với một ông vua riêng. (Đưa ra ảo tưởng để thuyết phục triều đình Pháp, BK).

Nguyên văn tiếng Pháp:

La pensée de Mgr. Retort était plus nette encore; Il faut, déclarait-il, que la France fasse quelque chose de grand, d’important, de durable et digne d’elle et de son Empereur. Si la France faisait la conquête de ce pays (et cela ne lui serait pas difficile) et le gouvernait directement, les Tonkinois en seraient assez contents, mais ils aimeraient mieux être sous la protection et l’influence de la France avec un roi particulier de leur nation. (Lettre de Mgr. Retord à M. Kleckowski précitée: Thư giám mục Retord gởi Kleckowsky trong công văn 12-10-1857 của Đô đốc Rigault de Genouilly. Thư khố quốc gia, tài sản Hải Quân BB4 752, CHT, SĐD, trang 80).

2.3.- Linh Mục Huc: Nên chiếm cả nước Việt Nam. Ông trình bày trước Ủy ban Nam Kỳ:

Có một gia đình cho rằng mình thuộc dòng vua chính thống và có lẽ chúng ta có thể xử dụng nó để lật đổ triều đình hiện nay… Ngay từ đầu, nên lập chế độ bảo hộ mà giữ nước của vua nầy lại nghiên cứu tổ chức trong nước giống với tổ chức của chúng ta và cuối cùng sẽ tuyên bố chúng ta là chủ của xứ đó”.

Nguyên văn tiếng Pháp:

Une famille qui prétend être la branche royale légitime et qu’on pourrait peut-être s’en servir pour renverser la dynastie actuelle…; il faudrait dès le principe établir le Protectorat en gardant la personne du Roi, étudier l’organisation du pays qui ressemble beaucoup à la nôtre et arriver enfin à nous déclarer maitres du pays. (Réponse du Père Huc, Procès-verbal, 5è séance, commission de Cochinchine, CHT, SĐD, trang 81, Linh mục Huc trả lời, biên bản phiên họp thứ 5, Ủy ban Nam Kỳ).

2.4.- Giám mục Pellerin:

Việc lập một hiệp ước có chữ ký của vua, việc có mặt của một lãnh sự, việc mở các cảng, việc xuất hiện của Hải quân bảo đảm được trong một thời gian mọi quyền lợi của chúng ta, nhưng một sự chiếm đóng hay một nền bảo hộ thì tốt hơn nhiều.

Nguyên văn tiếng Pháp:

La conclusion d’un traité signé par le roi, la présence d’un consul, l’ouverture des ports, l’apparition des forces navales garantiraient pour un temps tous nos intérêts mais une occupation ou un protectorat serait de beaucoup préférable. (Géséance, Commission de Cochinchine, CHT. SĐD, trang 81).

Những trích dẫn trên cho chúng ta thấy từ thời chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong, giáo sĩ Dòng Tên A. de Rhodes đã vận động chính phủ Pháp đánh chiếm Việt Nam. Về sau nầy, trước lúc Pháp đánh chiếm Đà Nẵng 1858, các Giám mục, Linh mục Pháp như Pellerin, Legrand, Retort, Huc đã trình bày với triều đình Pháp và với Ủy Ban Nam Kỳ (Commission de Cochinchine) để chiếm Việt Nam. Vậy mà nhà “thông thái” Nguyễn Trường Tộ lại nhận định quá sai lầm trong bài Giáo Môn Luận.

Để cho vấn đề được vô tư, rõ ràng và chính xác hơn, tại sao triều đình nhà Nguyễn cấm đạo Gia Tô La Mã, tôi xin trích dẫn ý kiến của Đô đốc Page trong văn thư đề ngày 14-12-1859 và 25-12-1859 sau đây:

Sau khi đi khắp nước thấy nhiều, nghe nhiều cuối cùng Đô đốc Page công nhận lý lẽ vững chắc của triều đình Huế, chính ông cũng bực mình về thái độ của các nhà truyền đạo và con chiên của họ:

Thật vậy, trong lúc dân chúng hoảng hốt chạy trốn khi quân Pháp kéo đến và tổ chức vũ trang tự vệ, ở nơi đông dân thì 3000 tín đồ Gia Tô đi theo Pháp và xin được đưa vô Saigòn là nơi mà Page đã dựng lên một thị trấn. Tôi ngạc nhiên biết bao? khi hôm sau các nhà truyền giáo đến nói với tôi, rằng các con chiên An Nam không tuân theo một quyền lực vô đạo, họ nói như thế. Sao! Họ cũng không muốn có cảnh sát để chận đứng trộm cướp du đảng, cướp bóc thành phố? Và tôi rất hổ thẹn khi thú nhận với Ngài rằng Giáo Hội Gia Tô tại An Nam đã ngạo nghễ đi rao giảng các nguyên lý đó: Ngoài ra không người Việt Nam theo Gia Tô nào ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua Việt Nam không theo đạo, không phải là vua của họ. Chắc bây giờ ngài đã hiểu tại sao vua, quan đã coi các nhà truyền giáo là kẻ thù?.

Xem thế, một Đô đốc thực dân Pháp cùng tín ngưỡng, cũng không thể chịu nổi những hành động của các giáo sĩ chứ trách gì các vua quan triều Nguyễn.

Nguyên Văn tiếng Pháp:

Après avoir beaucoup parcouru le pays, beacoup regardé, beaucoup écouté, l’amiral Page finit par reconnaitre le bienfondé des arguments du gouvernement de Huế, lui même ayant été choqué par l’attitude des missionnaires et de leurs chrétiens.

En effet, tandis que la population fuyait avec épouvante à l’approche des troupes francaises et que des milices armées s’organisaient là où il y avait un centre de population, 3.000 catholiques se rallièrent aux Francais et demandèrent à être ramenés à Saigon où Page avait crée une municipalité. “Quelle a été ma surprise? Lorsque le lendemain les missionnaires sont venus me déclarer que les chrétiens annamites ne pouvaient pas obéir à une autorité payenne, c’est leur mot. Quoi! Pas même pour la police municipale? Pour empêcher les voleur, les vagabonds de mettre la ville au pillage? Et je suis confus d’avouer à Votre Excellence que ces principes sont professés hautement par les associations annamites catholiques… “Du reste, pas un Vietnamien catholique n’hésita à demander à s’enriler comme soldat sous le draupeau francais. Le roi payen du Vietnam n’était point leur roi. “Votre Excellence comprendra sans doute maintenant comment le Roi et les mandarins regardent les missionnaires catholiques comme des ennemis? (Dépêche de l’amiral Page, du 14-12 et 25-12-1859. Archives Nationales, Fonds, Marine BB4 777. CHT, trang 128 & 129).

Tôi dẫn chứng hơi dài dòng về các hành động tình báo và chính trị mà các linh mục, giám mục ngay cả và các Giáo Hoàng La Mã, để thấy rõ sự sai lầm và nguy hiểm của Nguyễn Trường Tộ lúc Bàn Về Tự Do Tôn Giáo, và khuyên triều đình nên “Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân” cũng như bài “Những việc Giám mục Gauthier có thể giúp“.

Dưới đây là sẽ trình bày một bản Điều Trần khác cũng thuộc về lãnh vực tôn giáo.  

Chương 2

DÙNG GIÁM MỤC, LINH MỤC VÀO VIỆC CANH TÂN,

viết vào tháng 8-1866.

Trong bản Di Thảo số 17 nêu trên, Nguyễn Trường Tộ lại còn táo bạo hơn lúc đề nghị nên dùng giám mục linh mục vào việc canh tân, và qua đề nghị nầy, chúng ta càng thấy rõ hơn cái tư tưởng trọng đạo hơn quê hương của ông.

Nguyễn Trường Tộ viết:

Nay giám mục lên Kinh đô, những điều trước đây tôi đã bẩm điều gì hoãn điều gì gấp giám mục có thể trình bày rõ được. Còn việc sắp đặt và sai phái như thế nào sẽ do triều đình quyết định. Trước đây giám mục đã từng bàn bạc với tôi rằng nếu triều đình muốn lần lượt canh cải để làm theo các phương pháp mới thì người rất vui mừng ủng hộ. Chỉ vì nay ta chưa có người. Nếu thật tâm tin nhau khẩn khoản yêu cầu, giám mục sẽ đưa các linh mục và đạo đồ, một số có khả năng am hiểu tiếng Tây, học qua một vài phương pháp của phương Tây như Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Nguyễn Lâu chẳng hạn sang Tây trước, học gấp các kỹ thuật mới mỗi thứ một năm rồi về sớm giúp vào việc áp dụng thi hành. Bởi vì bọn họ học sơ qua gấp rút trong một năm vẫn còn kết quả hơn là triều đình mở trường mời người Tây đến dạy học trong mười năm. Đó là những điều giám mục nói riêng với tôi như vậy. Về phần tôi, tôi chỉ dùng lời khéo léo dẫn dụ giám mục và các người ấy để họ vui vẻ cầu tiến mà thôi, chứ tôi không có quyền sai sử. Nếu triều đình muốn gấp rút thực hành để tạm thời ứng dụng thì chỉ nên bắt đầu một hai người và trong khi thương nghị cùng giám mục nên nêu rõ tên những người triều đình muốn khẩn phái sang Tây học tập giám mục sẽ không từ chối được. Nhưng không nên nói cho giám mục biết đó là những điều tôi đã góp ý trước với triều đình. (Dẫn theo TBC, SĐD trang 188).

Một cách tổng quát, qua các sử liệu đã dẫn ở trên, chúng ta thấy từ con chiên đến Linh mục, Giám mục như Pellerin, Retort, Gauthier, Húc… và ngay cả các Giáo Hoàng là những người rất nguy hiểm cho vận mạng quốc gia Việt Nam, nên không thể nhờ và dùng vào việc canh tân được. Tuy vậy để được công bằng, chúng ta nên tìm hiểu lý lịch các linh mục mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị trong đoạn văn nói trên.

a. Sơ lược về các Linh mục và Giám mục mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị vào việc canh tân.

Chúng ta có các chi tiết sau đây:

1.- Theo bài viết Nguyễn Trường Tộ Học Ở Đâu của nhà học giả Đào Duy Anh trong tạp chí Tri Tân, số 7 năm 1941, trang 167 cho chúng ta biết chi tiết về Nguyễn Trường Tộ và Linh mục Nguyễn Hoằng như sau:

Nguyễn Trường Tộ học rộng nhưng viết và nói tiếng Pháp không thạo lắm, vì ông không chuyên học chữ Pháp ở Pê Năng (Trường huấn luyện thông ngôn ở Mã Lai, BK) như các ông Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Hoằng. Bởi thế ông không khi nào làm thông ngôn. Mà khi giúp việc cho súy-phủ thì chỉ làm việc từ-hàn (Lettré) cũng như Tôn Thọ Tường. Mỗi khi triều đình cần dùng người thông ngôn thì Nguyễn Trường Tộ cứ giới thiệu Nguyễn Hoằng (Linh mục Hoằng) chứ tự mình không khi nào đương việc ấy.

2.- Về những người làm thông ngôn như Nguyễn Hoằng, những viên thư ký, như Nguyễn Trường Tộ, nhà sử học Cultru đánh giá họ như thế nào? Xin xem lại phần 2. Dưới đây tôi chỉ tóm lược: Về sau, Đề đốc Rieunier nói: “Chúng tôi chỉ có những giáo dân và bọn du thủ du thực.

Đại tá Bernard cũng viết bọn lang bạt bị trục xuất khỏi làng vì đói rét, hoặc vì tội phạm xô về đây với cái lưng mềm dễ uốn, họ ham sống sợ chết, họ hoàn toàn hờ hững với cuộc đấu tranh của dân tộc họ, phụng sự bất cứ những ông chủ nào…

Người ta sẽ tuyển dụng trong số họ tất cả nhân viên hành chánh cần thiết cho địa phương hoặc những người giúp việc gia đình: làm đày tớ, khuân vác, chạy giấy, và có những tên phiên dịch, hoặc những người ghi chép, được đào tạo thô sơ qua các nhà trường của hội Truyền giáo, chính là qua sự tiếp xúc với những kẻ khốn nạn nầy mà quân đội thực dân mới đổ bộ lên làm quen với người Việt Nam.

Qua ba sử liệu vừa trích dẫn trên cho thấy chính Đề đốc và đại tá người Pháp cũng đánh giá người Việt Nam theo Gia Tô lúc bấy giờ, những người thông ngôn, phiên dịch, ghi chép là những kẻ khốn nạn…; “Lưng mềm, dễ uốn, ham sống, sợ chết, phụng sự bất cứ những ông chủ nào….

3.- Còn Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều là những tên gián điệp mà tôi đã đưa ra nhiều dẫn chứng ở phần trước nhất là từ các trang 118 đến 135. Sau đây là một số dẫn chứng khác cho thấy cả thầy lẫn trò của Gauthier nói trên là những thành phần nào?

3.1.- Theo Sự Tích Ông Nguyễn Trường Tộ thì năm 1858, Giám mục Gauthier có đem theo vào Đà Nẵng cụ Khang, cụ Điều (người An Phú), cụ Huấn (người Trung Hậu), khi ấy cả ba ông chưa thụ chức thầy cả. (TBC, SĐD, phần chú thích, trang 190). Sau nầy chúng ta chỉ thấy Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và Joannes. Vị cùng đi Pháp với Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ (1867-1868). (TBC, SĐD, trang, 90).

Gauthier dẫn mấy ông nầy vào để đón giặc Pháp chiếm Đà nẵng năm 1858 mà chúng ta được biết rõ thêm như sau:

3.2.- “Theo lời khai của một lang y (người thôn Thuận An, tổng Thanh Vân, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An) tên Trần Vinh bị tàu Pháp bắt đem đi rồi sau trốn thoát được, kể lại thì ngày 10 tháng 9 (tức 16-10-1858), tàu Pháp (trên đó có Trần Vinh) đến đảo Nhãn Sơn, trước cửa Mành Sơn, để đón “Đức Thầy Huy và Cố Lý” (tức Giám mục Gauthier và Linh mục Croc, cũng có tên là Hậu và Hòa) nhưng “hôm qua hai vị đã lấy thuyền Nhà Chung với 8 người đi rồi”. Khi tàu Pháp trở về Trà Sơn, Đà nẵng, thì thấy thuyền Nhà Chung đã ở đó rồi.” (Xem Châu bản Triều Nguyễn CBR 22/47). Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà Nẵng đứng đầu là Giám mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài Gòn. Do đó, trước khi đem quân vào Sài Gòn, Đô đốc Rigault de Genouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi Hồng Kông trong những điều kiện như thế vào đầu năm 1859” (TBC, SĐD, trang 22).

Qua hai đoạn văn trên mà tôi đã trích lại của Linh mục Trương Bá Cần, Tiến Sĩ Sử Học Pháp, chúng ta thấy Giám mục Gauthier, Giám mục Croc, Linh mục Nguyễn Hoằng, Linh mục Nguyễn Điều và Nguyễn Trường Tộ… tổng cọng là 8 người đã có mặt tại Đà nẵng để chào mừng quân viễn chinh xâm lăng Pháp chứ không thể có hành động nào khác như đi truyền đạo hay du lịch! Đoạn văn thứ hai trên còn cho biết các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà nẵng, đứng đầu là Giám mục Pellerin (là người được Giáo Hoàng Pie IX tán thành cuộc vận động để Pháp chiếm Việt Nam, BK, xin xem phần trước), đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm..”. Đô Đốc R. de Genouilly không đồng ý vì thấy đó là vấn đề nguy hiểm nên đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ, Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi sang Hồng Kông… đầu năm 1859.

3.3.- Linh mục Trương Bá Cần cho biết thêm:

Hơn nữa, nếu Nguyễn Trường Tộ có đi Pháp thì sớm nhất là giữa năm 1859 (14) mới tới nơi và khó có thể có mặt ở Hồng Kông đầu năm 1861 để cùng với Giám Mục Gauthier trở về Sài Gòn, theo yêu cầu của Đô đốc Charner viên chỉ huy được giao trách nhiệm gom quân để mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài gòn. (TBC, SĐD, trang 22).

Nối kết ba đoạn vừa dẫn trên, theo thứ tự thời gian chúng ta thấy, hai Linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình dùng vào việc canh tân thì tất cả hai ông đều đã có mặt trong đám linh mục Pháp mà đứng đầu là Giám mục Pellerin áp lực để quân Pháp đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Còn Nguyễn Trường Tộ thì có mặt trong đám giáo sĩ gián điệp và thực dân hai lần. Lần đầu là tại Đà Nẵng 1858, bị Đô Đốc Genouilly bắt buộc đi Hồng Kông cùng với thầy mình là Gauthier. Lần thứ hai, 1861 cùng với Giám mục tình báo Gauthier trở về Sài Gòn theo yêu cầu của Đô Đốc Charner…để mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài Gòn…

Qua đó chúng ta đã thấy rõ, Nguyễn Trường Tộ có mặt giữa đoàn quân xâm lăng Pháp trong hai biến cố trọng đại: chiếm Đà nẵng năm 1858 và mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài Gòn năm 1861. Lịch sử đã không cho thấy Linh mục Hoằng, Linh mục Điều và Nguyễn Trường Tộ có một lời phản đối nào trước hai cuộc xâm lăng của thực dân Pháp nói trên mà chỉ cho thấy họ có mặt trong đoàn quân chiếm đánh nước ta. Để làm sáng rõ thêm các chi tiết như số lính, ngày tháng và kết quả của đoàn quân Charner, trong đó có cả Nguyễn Trường Tộ và Gauthier mà Linh mục Trương Bá Cần nêu trên, sử liệu cho thấy rằng: Lúc ký xong hòa ước với Trung Quốc ngày 25-10-1860, Phó Đô Đốc Charner lên đường đi Sài Gòn để tăng cường việc chiếm đóng. Ông ta đến đây vào tháng 2-1861 cùng với ba tiểu đoàn bộ binh, 1.200 lính thủy đánh bộ và gần cả một hạm đội mang theo vật dụng cần thiết.

Liên tiếp các ngày 25, 26, 27 tháng 2, lực lượng Pháp chiếm Kỳ Hòa… (CHT, SĐD, bản luận án in bằng Rônéo, trang 133).

Nguyên văn tiếng Pháp:

La paix signée avec la Chine (25 Octobre 1860), le vice-amiral Charner se mit en route vers Saigon pour renforcer l’occupation. Il arriva en février 1861, suivi de 3 bataillons des troupes de la guerre, douze cents hommes d’infanterie de marine et presque toute l’escadre apportant le matériel nécessaire. Les 25 – 26 – 27 fevrier, les forces Francaises s’emparèrent de Kỳ Hòa…” (CHT, SĐD,trang 133).

(Ghi chú: Charner lúc đó chỉ là phó Đô đốc, Vice-admiral, chứ chưa phải Đô đốc. Có lẽ Linh mục Trương Bá Cần nhầm lẫn).

Nếu các vị linh mục nêu trên không thuộc loại người Khốn nạn, cong lưng, chạy theo chủ mới như đại tá Bernard người Pháp nhận định thì cũng không thể dùng mấy vị nầy vào việc canh tân đất nước được. Không phải ai nói được tiếng Pháp, làm được thông ngôn thì có thể học được các kỹ thuật mới?. Nghề linh mục thì có thể canh tân giáo hội, còn canh tân đất nước thì cần đặt lại vấn đề. Hơn nữa bốn vị Linh mục trên được vị Giám mục tình báo Gauthier dẫn dắt, cũng làm chúng ta vô cùng lo âu cho cuộc canh tân nếu triều đình dùng đến họ. Ngay cả Nguyễn Trường Tộ đi sát với một vị giám mục tình báo trong một bối cảnh đất nước lúc bấy giờ, và có mặt ít nhất là hai lần trong đoàn quân xâm lăng nước ta, và theo đám giáo sĩ gián điệp nước ngoài có cho phép chúng ta nghi ngờ Nguyễn Trường Tộ là một người Việt gian hay không? Và Linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều đã đến Đà Nẵng đón rước quân xâm lược Pháp. Vậy họ chỉ được dùng vào việc canh tân cho sách lược của Pháp để dễ đồng hóa dân tộc Việt Nam ta mà thôi.

Sử liệu cũng cho thấy, sau khi Nguyễn Trường Tộ chết, năm 1871, ý kiến đề nghị “Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân” đã có phần “kết quả” như sau:

“…Sau khi Hàm Nghi lên ngôi đi kháng chiến, Chánh Mông sang tòa khâm sứ Pháp xin De Courcy để tên đại tướng giặc thương tình cho hai đội lính Pháp hộ tống sang thành nội làm lễ đăng quang lên ngôi hoàng đế, đặt ra niên hiệu Đồng Khánh thì ông vua bù nhìn nầy được sự cố vấn của Trương Vĩnh Ký và Linh mục Nguyễn Hoằøng (Chức Ngự Tiền Hành Nhân) hợp cùng tay sai đắc lực Pháp như Nguyễn Hữu Độ, Phan Liêm… ra sức dùng mồi danh lợi kêu gọi nghĩa quân…”(Phong Trào Nghĩa Hội Quảng Nam , trang 340). Cùng trang 340 sách nầy, tác giả Nguyễn Sinh Duy, chú thích thêm:

Còn Nguyễn Hoàng (có chỗ chép Hoằng), sinh 1839, người Hà Tĩnh, theo đạo Thiên Chúa, từng du học ở chủng viện Pénang, Mã Lai. Năm 1876, được cử làm Tham Biện Thương Chính ở Hải Phòng và Hải Dương, năm 1885, hàm Hường lô tự Khanh kiêm Tham Biện việân Cơ Mật, năm 1886, giữ chức Phụ tế đại thần và Ngự Tiền triều vua Đồng Khánh.”

Thật là đại họa, triều vua nhà Nguyễn nuôi ong tay áo, nhận giặc làm con. Đến lúc Đồng Khánh được De Courcy cho lên làm vua bù nhìn để dễ sai bảo. Thực dân Pháp đã đưa được ít nhất là hai tên Việt gian là Linh mục Nguyễn Hoằng và Trương Vĩnh Ký giữ chức quan trọng trong triều vua tay sai Đồng Khánh. Trương Vĩnh Ký là một giáo sĩ Gia Tô tu xuất và đã viết thư tay yêu cầu chính phủ Pháp đánh chiếm Việt Nam. Xin xem cuốn “Ki Tô Giáo, Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại” như đã dẫn chứng ở đoạn truớc. Nguyễn Trường Tộ đề nghị dùng giám mục linh mục “canh tân” kiểu nầy thì thật là hoàn toàn đúng ý và đúng kế hoạch của Giám mục Puginier và Gauthier: nhanh chóng biến “Bắc Kỳ thành một nước Pháp nhỏ” dĩ nhiên, sau đó là đến lượt Trung Kỳ và Nam Kỳ.

Muốn rõ thêm một linh mục, giám mục có thể dùng để canh tân xứ sở hay không, chúng ta nên biết qua cái bổn phận mà họ được đào tạo từ xưa đến nay.

b. Nhiệm vụ của một linh mục giám mục:

Để vấn đề được chính xác hơn, chúng ta nên nghe lời phát biểu của Linh mục Trịnh Văn Phát: “Giúp quê hương không phải là bổn phận trực tiếp của tôi, nhưng tôi có bổn phận với giáo hội vì tôi là người của giáo hội và được đào tạo để sau nầy, phục vụ cho giáo hội. Có nhiều anh em yêu cầu tôi giúp địa phận, tôi thẳng thắn trả lời là tôi không có tự do lựa chọn, tôi đã được huấn luyện để phục vụ theo nhu cầu của giáo hội (Tập san Giáo Hoàng Học Viện PIO X Đà Lạt – Liên Lạc, số 2 tháng 7 năm 1995 trang 72. Nhóm Úc Châu thực hiện, dẫn theo Lê Trọng Văn trong tác phẩm Việt Nam những sự kiện lịch sử trong thế kỷ 20”, Hoa Kỳ, 1997, trang VIII).

Mục đích huấn luyện linh mục là để phục vụ cho giáo hội mà các giáo hội Gia Tô trên toàn cầu lại phải trực tiếp lệ thuộc Vatican, giám mục linh mục không có quyền thoát khỏi sự đặt để và chỉ thị trực tiếp của Giáo Hoàng La Mã. Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên lúc Vatican bật đèn thì các cố đạo ngoại quốc hướng dẫn hoặc toa rập với các phong trào chiếm thuộc địa như chúng ta đã thấy trong bài nầy. Cũng vì vậy mà ngay cả 70 năm, sau khi Nguyễn Trường Tộ chết, Giám mục Nguyễn Bá Tòng năm 1940, tại nhà thờ Phát Diệm đã nhận lãnh Ngũ Hạng Bắc Đẩu Bội Tinh, do thống tướng Pétain, quốc trưởng Pháp tặng. Trong phần đáp lễ, Giám mục Nguyễn Bá Tòng nói Tỏ lòng cảm ơn chính phủ, tỏ lòng trung thành con dân Việt Nam đối với Mẫu quốc Pháp. (xin xem cuốn Hội Hè Đình Đám của Toan Ánh). Với bổn phận của một giám mục linh mục như thế, nên trong thư viết tay ngày 21-8-1944 Giám mục Ngô Đình Thục (anh của TT. Ngô Đình Diệm) từ tòa truyền giáo Vĩnh Long gởi cho Đô đốc Jean Decoux chúng ta thấy có đoạn:

Với tư cách của một Giám mục, của một người Annam và với tư cách là người con của một gia đình mà thân phụ tôi (tức là Ngô Đình Khả, BK) được phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An Nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy tại Nghệ An và Hà Tịnh”. Nguyên văn tiếng Pháp:

Je la désapprouve au font du coeur, comme évêque, comme Annamite, et comme membre d’une famille dont le père a servi la France dès sa première venue en Annam et a exposé maintes fois sa vie pour elle dans les expéditions menées, comme lieutenant de Nguyễn Thân, contre les rebelles commandés par Phan Đình Phùng au (à) Nghệ An et Hà Tịnh. (Xin xem thêm cuốn Hồi Ký “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi”. Hoành Linh Đỗ Mậu, Hoa Kỳ 1995, phần phụ lục). Linh mục Hoàng Quỳnh cũng đã từng tuyên bố Thà mất nước không thà mất Chúa.

Linh mục giám mục được đào tạo với mục đích để phục vụ Giáo hội (hay phục vụ Vatican cũng thế, BK). Còn Nguyễn Hoàng và Nguyễn Điều thì đã cong lưng theo Pháp. Vậy mà Nguyễn Trường Tộ lại đề nghị triều đình Tự Đức nên dùng giám mục linh mục vào việc canh tân là một hậu ý hết đường phê phán!

Đoạn kế tiếp của bản Điều Trần nầy, Nguyễn Trường Tộ viết:

Xin giám mục giúp đỡ… nói rõ rằng triều đình muốn giám mục (tức Giám mục gián điệp Gauthier, BK) đến La Mã đạo đạt lên Giáo Hoàng về ý muốn giao hảo. Tôi quả thật bị choáng váng với cái đề nghị tai hại nầy nên không dám bàn thêm sợ thiếu ái ngữ.

Cũng như hầu hết những người Việt Nam khác, lòng tự ái dân tộc, tình yêu quê hương nồng nàn, nhưng lúc thấy Giám mục Gauthier, Giám mục Sohier, Giám mục Croc, Linh mục Nguyễn Hoằng, Linh mục Nguyễn Điều và Nguyễn Trường Tộ là những người hoặc có tham dự ít nhiều vào việc mở trường tại Huế, hoặc Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình nên dùng vào việc canh tân đất nước, thì chính những người nầy lại có những hành động đón rước, hợp tác, hỗ trợ cho thực dân Pháp xâm lăng quê hương trong bước đầu chiếm Đà nẵng và mở rộng vùng bị chiếm đóng tại Sài Gòn. Nghĩ lại cái cảnh toa rập, “áp lực” và cong lưng ấy, lòng tôi bị quặn đau, bị se lại và buồn thương cho đất nước, cho triều đình vua Tự Đức không hề biết gì về hành động nguy hiểm của các người đó.

Vì thế, để tránh thiếu ái ngữ, tôi không dám nhận định thêm một số bài Di Thảo có tính tôn giáo như Di Thảo số 13 Những việc Giám mục Gauthier có thể giúp, Di Thảo số 48 Thương lượng với Giám Mục Croc. Nhưng đất nước Việt Nam vẫn còn có phước, triều đình nhà Nguyễn vì Ngu muội không chịu áp dụng những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ, còn không thì những con vi trùng trong thịt sư tử đã ăn hết cả thịt lẫn xương của con sư tử từ lâu rồi!

Trước khi qua phần tổng luận tôi có một ý kiến nhỏ với Linh mục Trương Bá Cần về danh từ giáo sĩ. Tôi chưa hề nghe ai nói giáo sĩ là nhân sĩ tôn giáo bao giờ. Chỉ được biết danh từ giáo sĩ là chỉ các vị đi tu bên đạo Gia Tô. Và theo Tờ Trình Của Tỉnh Nghệ An ngày 26-4-1870 của Hoàng Tá Viêm, Ngụy Khắc Đản và Trần Nhượng thì Nguyễn Trường Tọa trước là linh mục (TBC, SĐD, trang 478). Có lẽ, vì thế mà nhiều người gọi Nguyễn Trường Tộ là giáo sĩ, chứ không phải giáo sĩ là nhân sĩ tôn giáo?
Linh Mục Alexandre de Rhodes,
người đầu tiên vận động Pháp đánh Việt Nam

Nguồn: https://www.sachhiem.net/BUIKHA/BuiKha01c_NTT.php


Click to listen highlighted text!